Tháng
4 là tháng cao điểm trong phòng chống dịch Covid-19. Thực hiện Chỉ thị số:
16/CT-TTg của Thủ Tướng Chính phủ về thực hiện các giải pháp cấp bách phòng
chống dịch Covid-19, thực hiện cách ly xã hội từ ngày 01-15/4/2020; Thực hiện
Chỉ thị số: 09/CT-UBND của Chủ tịch UBND tỉnh về thực hiện các biện pháp cấp
bách phòng chống dịch Covid-19, nhiều hoạt động sản xuất kinh doanh trên địa
bàn tạm ngưng hoạt động hoặc giảm quy mô sản xuất kinh doanh. Mặt khác do ảnh
hưởng của dịch Covid-19 trên thế giới nên nguồn nguyên liệu đầu vào hạn chế
nhập khẩu, nên một số ngành sản xuất thiếu nguyên liệu, thị trường xuất khẩu bị
thu hẹp, một số doanh nghiệp sản xuất cầm chừng hoặc sản xuất luân phiên cho
công nhân nghỉ việc… từ đó các chỉ tiêu kinh tế tăng rất thấp so cùng kỳ.
I.
Lĩnh vực kinh tế
1. Sản xuất công nghiệp
Tình hình sản xuất công nghiệp trên cả nước nói chung và Đồng Nai
nói riêng tháng 4 và 4 tháng đầu năm 2020 chịu tác động ảnh hưởng của dịch
Covid 19 nên sản xuất kinh doanh gặp khó khăn lớn, tăng trưởng rất thấp. Đặt
biệt một số ngành sản xuất chủ lực giảm so cùng kỳ.
Chỉ số phát triển sản xuất công nghiệp tháng 04 năm 2020 giảm 9,4% so với tháng 04 năm 2019, giảm 9,95% so với tháng
trước. Cộng dồn 4 tháng đầu năm 2020 tăng 1,19% đây là mức tăng thấp nhất trong
nhiều năm vừa qua. Trong đó:
ngành công nghiệp khai thác mỏ tăng 2,83%;
ngành công nghiệp chế biến tăng 2,02%; ngành sản xuất và phân phối điện, khí đốt,
nước nóng, hơi nước giảm 9,86%; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và
xử lý rác thải, nước tăng 4,46%. Sau đây là tình hình chỉ số sản xuất của
các ngành công nghiệp cấp II như sau:
- Chỉ số sản xuất
công nghiệp của ngành khai khoáng: dự ước tháng 04/2020 giảm 13,13% so với tháng trước và giảm 2,52% so với tháng 04/2019. Cộng dồn 4 tháng đầu năm 2020 tăng 2,83%.
- Chỉ số sản xuất
công nghiệp của ngành sản xuất chế biến thực phẩm: dự ước tháng 04/2020 tăng 0,51% so với tháng trước và và tăng 4,28% so với tháng 04/2019.Cộng dồn 4 tháng đầu năm 2020 tăng 4,65%. Đây là ngành ít bị ảnh
hưởng dịch bệnh Covid-19 nên tình hình sản xuất của ngành này vẫn có mức tăng
trưởng so cùng kỳ. Một số doanh nghiệp sản xuất chế biến thức ăn gia súc vẫn có
mức tăng trưởng nên ít ảnh hưởng đến chỉ số phát triển trong toàn ngành như:
công ty TNHH Vina, Công ty Cargill và một số công ty khác có mức tăng từ 2-10%
so cùng kỳ.
- Chỉ số sản xuất
công nghiệp của ngành sản xuất thuốc lá giảm15,83% so với tháng 02/2020, tăng 2,68% so cùng kỳ. Cộng dồn 4 tháng đầu năm 2020 tăng 7,01%.
Đây là ngành cũng không ảnh hưởng nhiều đến tình sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp do các doanh nghiệp có nguồn cung, cầu ổn định từ những tháng trước.
- Chỉ số sản xuất
công nghiệp của ngành dệt: Ngành này chịu ảnh
hưởng nặng của dịch Covid – 19, dự ước tháng 04/2020 giảm 6,92% so với
tháng trước và giảm 11,72% so với tháng 04/2019. Cộng dồn 4 tháng đầu năm 2020 giảm 2,84%. Nguyên nhân giảm mạnh là
do dịch Covid -19 phát sinh ảnh hưởng tiêu cực đến ngành sản xuất này, nguồn
nguyên vật liệu đầu vào gặp nhiều khó khăn do nguồn cung chủ yếu từ Trung Quốc
Đại lục. Một số doanh nghiệp có mức sản xuất giảm so cùng kỳ: Công Ty Trách
Nhiệm Hữu Hạn Jaeiu Việt Nam (giảm 23,23%). Đặc biệt Công Ty TNHH Quốc Tế Gold
Long Jhon Đồng Nai Việt Nam có mức giảm trên 70%, nguyên nhân là do thiếu
nguyên liệu đầu vào làm ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất của ngành này.
- Chỉ số sản xuất
công nghiệp của ngành sản xuất trang phục: dự ước tháng 04/2020 giảm 21,9% so với tháng trước và giảm 25,73% so tháng 04/2019. Cộng dồn 4 tháng đầu năm 2020 giảm 6,69%. Nguyên nhân giảm mạnh
cũng tương tự như ngành dệt do ảnh hưởng trực tiếp của đại dịch Covid-19, nhiều
công ty sản xuất gián đoạn cụ thể ở một số doanh nghiệp sau: CôngTy Trách Nhiệm
Hữu Hạn Yupoong Việt Nam, Công Ty cổ phần NamYang mức giảm từ 5-20%..., các
doanh nghiệp khác sản xuất cầm chừng do thiếu nguồn nguyên vật liệu đầu vào,
bên cạnh đó nhiều doanh nghiệp hợp đồng tiêu thụ giảm thậm trí phải cho công
nhân nghỉ luân phiên vì vậy ảnh hưởng chung đến chỉ số sản xuất của ngành.
- Chỉ số sản xuất
công nghiệp của ngành sản xuất da và các sản phẩm có liên quan: dự ước tháng
04/2020 giảm16,23% so với tháng trước và giảm 16,08% so với tháng 04/2019. Cộng dồn 4 tháng đầu năm 2020
tăng 7,3%. Cũng là ngành có mức ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19 do đơn hàng
xuất khẩu đi các thị trường Châu Âu, EU và Mỹ đóng băng, nhiều công ty phải cho
công nhân nghỉ luân phiên, như công ty Pouchen, Cty Tae Kwang vina Industrial,
Cty Chang shin Cty Hwaseung vina,… Tuy nhiên do có các hợp đồng cũ nên một số
DN vẫn duy trì được sản xuất, do đó chỉ số sản xuất tăng.
- Chỉ số sản xuất
công nghiệp của ngành sản xuất hóa chất và sản phẩm hóa chất: dự ước tháng
04/2020 giảm 6,51% so với tháng trước và giảm 25,32% so với tháng 04/2019.Cộng dồn 4 tháng đầu năm 2020
giảm 7,28%.
- Chỉ số sản xuất
công nghiệp của ngành sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác: dự ước
tháng 04/2020 giảm 14,1% so với tháng trước và giảm 24,15% so với tháng 04/2019. Cộng dồn 4 tháng đầu năm 2020 giảm 7,98%. Ngành này cũng chịu ảnh
hưởng của dịch nên tiến độ thi công các công trình chậm lại, nhu cầu sử dụng
sản phẩm giảm.
- Chỉ số sản xuất
công nghiệp của ngành sản xuất kim loại: dự ước tháng 04/2020 tăng 9,83% với tháng trước và giảm 3,9% so với tháng 04/2019. Cộng dồn 4 tháng đầu năm 2020 giảm 10,66%.Nguyên nhân giảm là sự
thu hẹp tỷ trọng xuất khẩu thép của Việt Nam tại Hoa Kỳ và Liên minh châu Âu và
do thép nhập khẩu từ nước ngoài.
- Chỉ số sản xuất
công nghiệp của ngành sản xuất thiết bị điện tử và sản phẩm
quang học: dự ước tháng
04/2020 giảm 20,27% so với tháng trước và giảm 35,52% so với tháng 04/2019.Cộng dồn 4 tháng đầu năm 2020 giảm 13,91%. Đây là ngành có sự ảnh
hưởng lớn nhất trong toàn ngành công nghiệp do diễn biến của dịch bệnh Covid
19, nhiều hợp đồng sản xuất kinh doanh phải hủy bỏ, một số doanh nghiệp khác
sản xuất cầm chừng cụ thể như: Công Ty TNHH Inzi Vina giảm 22%, đặc biệt Công
Ty Trách Nhiệm Hữu Hạn Olympus Việt Nam giảm 35,8% do không có hợp đồng phải cho công nhân nghỉ,
sản xuất gián đoạn. Nhiều công ty khác sản xuất khó khăn liên tục sụt giảm do
thiếu nguồn cung nguyên liệu và nhu cầu tiêu dùng khách hàng…
- Chỉ số sản xuất
công nghiệp của ngành sản xuất thiết bị điện: dự ước tháng 04/2020 giảm 4,12% so với tháng trước và giảm 12,67% so với tháng 04/2019.Cộng dồn 4 tháng đầu năm 2020 giảm 7,06%.
- Chỉ số sản xuất
công nghiệp của ngành sản xuất xe có động cơ: dự ước tháng 04/2020 giảm 23,79% so với tháng trước và giảm 8,56% so tháng
04/2019. Cộng dồn 4 tháng đầu năm 2020 tăng 5,97%.
- Chỉ số sản xuất
công nghiệp của ngành sản xuất giường, tủ, bàn, ghế: dự ước tháng 04/2020 giảm10,18% so với tháng 3/2020 và giảm19,17% so với tháng 04/2019. Cộng dồn 4 tháng đầu năm 2020 giảm7,38%. Do thị trường xuất khẩu
sản phẩm gặp nhiều khó khăn, giảm sản xuất nên ảnh hưởng chung đến chỉ số chung
của ngành, cụ thể như: Công Ty Trách Nhiệm Hữu Hạn Thành Phú Phát (giảm
45%),Công Ty Trách Nhiệm Hữu Hạn Hòa Bình (giảm 57%), Công Ty Cổ Phần Johnson
Wood (giảm 37%). Ngành này cũng bị ảnh hưởng rất lớn vì dịch bệnh, hoạt động
sản xuất kinh doanh bị sụt giảm, hợp đồng tiêu thụ gặp nhiều khó khăn do thị
trường Mỹ và EU đóng băng, giá cả nguyên vật liệu đầu vào tăng.
- Chỉ số sản xuất
công nghiệp của ngành sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước:
dự ước tháng 04/2020 giảm 4,29% so với tháng trước và giảm 15,91% so với tháng
04/2019. Cộng dồn 4 tháng đầu năm 2020 giảm 9,86%. Nguyên
nhân giảm mạnh là từ tháng 1 lượng khí cấp bị sụt giảm nên nhà máy điện Nhơn
Trạch phải vận hành bằng nhiên liệu dầu DO, do đó kết quả sản xuất từ đầu năm
so cùng kỳ giảm.
- Chỉ số sản xuất
công nghiệp của ngành khai thác, xử lý và cung cấp nước: dự ước tháng 04/2020 giảm 4,26% so tháng trước. Tăng 9,16 so cùng ký.Cộng dồn 4
tháng đầu năm 2020 tăng 4,46%.
Chỉ số sản
phẩm công nghiệp ước tháng 4
năm 2020 hầu hết các sản phẩm đều giảm so với cùng kỳ năm trước do ảnh hưởng
của dịch bệnh Covid-19 cụ thể như: giày dép các loại 15,4 triệu đôi, giảm
59,76%; quần áo các loại 11.815 nghìn cái, giảm 15,32%; Gường, tủ, bàn ghế 913
nghìn chiếc, giảm 25,55%; sợi các loại 110,3 nghìn tấn, giảm 9,59%; vải các
loại 49,6 triệu m2, giảm 13%; thức ăn gia súc, gia cầm 305,5 nghìn
tấn, giảm 14,11%; máy giặt 25,5 nghìn cái, giảm 33,27%; thuốc bảo vệ thực vật
186,9 tấn, giảm 52,79% ... Tuy nhiên có một số ngành ít ảnh hưởng bởi dịch bệnh
nên chỉ số sản phẩm tăng so cùng kỳ như: Cà phê các loại 39,6 nghìn tấn, tăng
34,78%; bột ngọt 29,3 nghìn tấn, tăng 24,14%; bao bì các loại 17 nghìn tấn,
tăng 1,94%; nước uống 13,8 triệu m3, tăng 10,21%.
Một số sản phẩm
có chỉ số sản xuất 4 tháng giảm nhiều so cùng kỳ như: máy giặt 105,3
nghìn cái, giảm 37,91%; thuốc bảo vệ
thực vật 891,9 tấn, giảm 27,01%; Gường , tủ , bàn ghế 4.290,4 nghìn chiếc, giảm
8,85%; thức ăn gia súc, gia cầm 1.218,4 nghìn tấn, giảm 8,19%; sơn các loại
34,7 nghìn tấn, giảm 19,32%%; vải các loại 202 triệu m2, giảm
6,37%; giày dép các loại đạt 78 triệu
đôi, giảm 1,69%... Một số sản phẩm tăng như:
cà phê các loại đạt 146,6 nghìn tấn, tăng 28,02%; bột ngọt đạt 109,9
nghìn tấn, tăng 21,85%; thuốc lá sợi đạt 7.862 tấn, tăng 8,47%; uống đạt 54,3
triệu m3, tăng 2,12%...
Nhìn chung 4 tháng đầu năm 2020 tình hình sản xuất công nghiệp trên địa bàn giảm mạnh so
cùng kỳ năm trước, hoạt động sản xuất kinh doanh gặp nhiều khó khăn ở hầu hết các ngành công nghiệp thể hiện qua
kết quả chỉ số sản xuất công nghiệp, 4 tháng/2020 có 12/27 ngành sản xuất tăng so cùng kỳ, có 15/27 ngành có
mức giảm. Trong đó một số ngành chủ lực giảm chủ yếu là do
ảnh hưởng của đại dịch Covid -19 đặc biệt là ngành điện tử, dệt, may mặc, sản xuất giường tủ
bàn ghế có mức giảm sâu. Dịch Covid -19 bùng phát trên toàn cầu đã làm cho
nguồn nguyên liệu đầu vào phục vụ sản xuất giảm và thị trường xuất khẩu sản
phẩm thu hẹp nên nhiều DN thuộc các ngành này sản xuất kinh doanh gặp khó khăn,
giảm sản lượng và ngừng sản xuất. Do đó ảnh hưởng không nhỏ đến chỉ số sản xuất công
nghiệp chung của toàn
ngành, nếu dịch bệnh vẫn diễn biến phức tạp thì sẽ tiếp tục ảnh hưởng
mạnh đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, nhiều doanh nghiệp
vượt tầm kiểm soát phải tạm ngừng sản xuất kinh doanh hoặc cho công nhân nghỉ
luân phiên, mặc dù Chính phủ đã có sự điều hành tích cực nhằm tháo gỡ khó khăn
cho doanh nghiệp như giãn thuế, tiền thuế đất nhưng tình hình sản xuất kinh
doanh vẫn rất khó khăn.
2. Sản xuất Nông - Lâm nghiệp và thủy sản
a. Nông nghiệp
Diện tích gieo trồng cây hàng năm vụ Đông xuân 2019-
2020 tính đến ngày 15/4/2020 đạt 40.009 ha, giảm 2,03% (-827 ha) so cùng
kỳ. Trong đó: diện tích cây lương thực đạt 25.397 ha, giảm 3,29% (-865 ha); Cây
củ có bột đạt 4.224 ha, tăng 0,74% (+31 ha); Cây thực phẩm đạt 6.601 ha, tăng
0,31% (+20,7 ha); Cây công nghiệp hàng năm đạt 1.673 ha, giảm 0,77% (-13 ha);
Cây hàng năm khác đạt 2.114 ha, giảm 0,03% (-0,5 ha) so cùng kỳ.
Nguyên nhân nhóm cây lương thực giảm là do một số huyện như: huyện
Nhơn Trạch giảm 280 ha, Xuân Lộc giảm 102 ha, TP. Long Khánh giảm 56 ha, Cẩm Mỹ
giảm 45 ha. Tại huyện Nhơn trạch do quy hoạch dự án khu dân cư Freeland và một
số dự án xây dựng nhà ở khác do trả lại đất khu dân cư đã quy hoạch mà chưa
triển khai nên dân thuê đất trồng lúa nay trả lại nhà đầu tư. Một số diện tích
do nắng nóng kéo dài không đủ nước gieo trồng, bên cạnh đó người dân tiếp tục
thực hiện chuyển đổi cơ cấu cây trồng từ cây lúa, bắp sang trồng rau, đậu các
loại, cây ăn quả có múi hiệu quả kinh tế cao hơn.
Trên cơ sở diện tích gieo trồng và thu thập
thông tin về tình hình sinh trưởng của cây trồng tại một số cánh đồng lớn; Dự
ước năng suất lúa đạt 58,51 tạ/ha, tăng 1,19% (+0,69 tạ/ha); Bắp là 80,01
tạ/ha, tăng 1,52% (+1,2 tạ/ha); Khoai lang là 93,6 tạ/ha, đạt 100%; Mía là
705,31 tạ/ha, (-17,91 tạ/ha); Đậu tương là 15,04 tạ/ha, tăng 3,72% (+0,54 tạ/ha);
Đậu phộng là 18,45 tạ/ha, giảm 0,65% (-0/12 tạ/ha).
Dự ước sản lượng thu hoạch cây trồng vụ Đông xuân đến ngày
15/4/2020 so cùng kỳ như sau: Lúa đạt
27.564 tấn, tăng 383 tấn (+1,41%); Bắp đạt 30.784 tấn, tăng 679 tấn (+1,9%);
Khoai lang đạt 496 tấn, giảm 19 tấn (-3,65%); Mía đạt 5.360 tấn, giảm 64 tấn
(-1,18%); Đậu tương đạt 60 tấn, tăng 2 tấn (+3,45%); Đậu phộng đạt 339 tấn,
giảm 8 tấn (-2,24%); Rau các loại đạt 61.782 tấn, giảm 27 tấn (-0,04%); Đậu các
loại đạt 611 tấn, giảm 8 tấn (-1,25%) so cùng kỳ.
Cây lâu năm
Tổng diện tích
hiện có năm 2020 là 169.884,89 ha, giảm 1,87%, (-3.238,82 ha) so cùng kỳ; Trong
đó diện tích cây ăn quả đạt 63.722,27 ha, tăng 9,57% (+5.567 ha), cây công
nghiệp lâu năm đạt 106.162,62 ha, giảm 7,66% (-8.805,84 ha) so cùng kỳ. Diện
tích cây công nghiệp lâu năm có xu hướng giảm mạnh, vì hiện nay có một số sản
phẩm của nhóm cây này giá giảm đáng kể như: Giá tiêu, điều, cao su, cà phê làm
tác động đến diện tích gieo trồng, sản lượng và giá trị sản xuất. Trong khi đó,
chi phí thu hoạch tiêu, điều, cao su giá thuê lao động cao.
Dự ước trong tháng 4 năm 2020 sản lượng thu hoạch so với cùng kỳ
như sau: Xoài đạt 7.955 tấn, tăng 1,17%, lũy kế 4 tháng đạt 32.072,9 tấn, tăng
2,76%; chuối đạt 11.935,3 tấn, tăng 3,28%, lũy kế 4 tháng đạt 38.527,6 tấn, tăng
3,1%; thanh long đạt 355 tấn, tăng 5,1%, lũy kế 4 tháng đạt 3.690,4 tấn, tăng
3,25%; dứa (thơm) đạt 82,5 tấn, tăng 1,23%, lũy kế 4 tháng đạt 284,9 tấn, tăng
1,22%; cam đạt 682,4 tấn, tăng 2,59%, lũy kế 4 tháng đạt 3.189,6 tấn, tăng
3,63%; bưởi 3.658 tấn, tăng 2,64%, lũy kế 4 tháng đạt 13.097,1 tấn, tăng 3,22%
so cùng kỳ.
Chăn nuôi
Tháng 4 năm 2020 ngành chăn nuôi tiếp tục
triển khai các giải pháp phòng, chống dịch bệnh; Hiện nay trên địa bàn tỉnh
không phát sinh Dịch tả heo Châu Phi. Sau khi xuất hiện
hai ổ dịch lở mồm long móng trên bò tại các xã Long Giao và Xuân Đường huyện
Cẩm Mỹ trong tháng 02/2020, ngành thú y đã phối hợp chính quyền địa phương và
người chăn nuôi triển khai rà soát các hộ chăn nuôi gia súc trên địa bàn và
tiến hành tiêu độc, khử trùng, tiêm phòng vắc-xin lở mồm long móng. UBND Tỉnh chỉ đạo các ngành, địa phương
cần thực hiện chặt chẽ các giải pháp, đặc biệt tập trung thực hiện chăn nuôi an
toàn sinh học, kiểm soát vận chuyển để phòng và chống dịch bệnh có hiệu quả. Số lượng gia súc, gia cầm trên địa bàn tỉnh tại thời điểm tháng 4
năm 2020 như sau:
|
Đơn vị
tính
|
Chính thức
cùng kỳ
|
Thực hiện
kỳ báo cáo
|
So sánh
cùng kỳ (%)
|
I. Gia súc
|
Con
|
2.421.633
|
2.003.412
|
82,73
|
1. Trâu
|
Con
|
3.177
|
3.226
|
101,54
|
2. Bò
|
Con
|
85.051
|
86.077
|
101,21
|
Tr. đó: Bò sữa
|
Con
|
657
|
661
|
100,61
|
3. Lợn (Không tính lợn con chưa tách mẹ)
|
Con
|
2.333.405
|
1.914.109
|
82,03
|
II. Gia cầm
|
1000 con
|
22.810,76
|
23.233,10
|
101,85
|
Trong đó: Gà
|
1000 con
|
21.161,28
|
21.613,61
|
102,14
|
- Số lượng đàn: Tổng đàn gia súc
hiện có là 2.003.413
con, giảm 418.221 con (-17,27%) so cùng kỳ. Trong đó trâu đạt 3.226 con tăng
1,54%, bò đạt 86.077 con tăng 1,21%; heo đạt 1.914.109 con, giảm 19,97%
(-419.296 con) (không tính heo con chưa
tách mẹ), nguyên nhân tổng đàn heo giảm là do ảnh hưởng của Dịch tả heo
Châu Phi nên số con giảm mạnh từ cuối năm 2019. Hiện nay các doanh nghiệp có quy mô chăn
nuôi lớn bắt đầu tái đàn trở lại, nhưng chậm do không đủ điều kiện, giá con
giống hiện quá cao cũng khiến người chăn nuôi e dè. Giá heo hơi tiếp tục tăng,
đến ngày 16/4 đã đạt mức 84.000 - 85.000 đồng/kg. Nguyên nhân
giá thịt heo vẫn cao là do chăn nuôi hiện tại chưa đủ sản lượng phục vụ nhu cầu
thị trường; mặt khác heo được giết mổ và phân phối chủ yếu ở các cơ sở nhỏ lẻ
khiến giá thịt heo bán lẻ chưa giảm. Nguyên nhân khác khiến cho giá heo hơi
đang đà tăng là do nguồn heo trong trại chăn nuôi của dân giảm, sản lượng tái
đàn chậm chưa kịp để bù lượng tiêu thụ. Các doanh nghiệp lẫn người dân đều chịu
những thiệt hại rất nặng nề do dịch tả heo vừa qua.
Tổng đàn gia
cầm có đến thời điểm tháng 4/2020 là 23.233,1 ngàn con, tăng 1,85% so cùng kỳ.
Trong đó gà đạt 21.613,61 ngàn con, tăng 2,14% và chiếm 93,03% tổng đàn gia cầm.
Đàn gà tăng chậm là do sau thời gian nghỉ Tết, thị trường gà công nghiệp phục
vụ các bếp ăn tập thể, khu công nghiệp, trường học nghỉ Tết kéo dài do dịch
bệnh viêm đường hô hấp cấp (virus Corona) gây ra khiến đầu ra của thị trường
chững lại. Hiện nay giá gà bán tại trại giảm mạnh, chỉ ở mức 12.000 - 14.000
đồng/kg. Với mức giá này, người nuôi gà đang lỗ rất nặng, mỗi kg thịt gà, người
nuôi lỗ khoảng 15.000 đồng/kg. Cơn khủng hoảng thừa gà chủ yếu là do thời gian
Dịch tả heo Châu Phi, tổng đàn gà tăng quá nhanh do chuyển đổi vật nuôi ồ ạt,
hơn nữa do nhu cầu sản phẩm thịt gà thời gian đó tăng cao, nên đến nay giá gà
giảm mạnh dưới mức giá thành sản xuất. Nhiều trang trại ùn ứ gà, vịt đến tuổi
xuất chuồng khiến người chăn nuôi lo lắng, chính vì vậy nhiều trang trại không
có chuồng để tăng đàn.
- Sản lượng sản phẩm: Dự ước sản lượng sản phẩm chăn nuôi gia súc, gia cầm
toàn tỉnh trong tháng tăng, giảm so cùng kỳ như sau: Sản lượng thịt trâu dự ước
17,08 tấn, tăng
1,97%; thịt bò dự ước 313,58 tấn, tăng 3,83%; thịt heo 27.880,06 tấn, giảm 7,28%; thịt gia cầm 11.994 tấn, tăng
5,59% so cùng kỳ.
Sản lượng trứng gia cầm đạt 79.178,68 ngàn quả, tăng 3,79% so cùng kỳ.
b. Lâm nghiệp
- Công tác trồng và chăm sóc,
nuôi dưỡng rừng: Trong tháng đã có xuất hiện những
cơn mưa trái mùa nên các đơn vị lâm nghiệp bắt đầu tiến hành trồng lại diện
tích rừng đã thu hoạch. Dự ước diện tích rừng trồng mới trong tháng 4/2020 đạt
700 ha, giảm 4,24% so với cùng kỳ. Nguyên nhân giảm là do lượng mưa đầu mùa
chưa nhiều nên các đơn vị lâm nghiệp mới bắt đầu xuống giống và vẫn tiếp tục
bảo vệ, chăm sóc diện tích rừng hiện có.
- Khai thác gỗ và lâm sản: Sản lượng gỗ khai thác dự ước đạt 17.950 m3, giảm
14,01% so tháng cùng kỳ; Lũy kế 4 tháng đạt 37.362 m3, giảm 6,69% so
cùng kỳ. Nguyên nhân giảm là do trong tháng nhiều đơn vị lâm nghiệp thực hiện
chiến dịch phòng, chống dịch Covid -19 nên tạm hoãn việc khai thác.
Sản lượng củi khai thác dự ước tháng 4 đạt 98 ste, giảm 2,97% so
tháng cùng kỳ, Lũy kế 4 tháng đạt 224,29 ste, giảm 0,96% so cùng kỳ.
- Công tác PCCCR và quản lý bảo vệ rừng: Đang là mùa khô thời tiết nắng nóng kéo dài nên công tác phòng
chống cháy rừng mùa khô được Chi cục Kiểm Lâm cũng như các đơn vị lâm nghiệp
đặc biệt chú trọng đồng thời tổ chức thực hiện các biện pháp cấp bách ngăn chặn
tình trạng chặt phá rừng và khai thác rừng trái phép; Phối hợp với chính quyền
địa phương, cơ quan công an, tăng cường công tác tuần tra, kiểm soát nên đã
ngăn chặn và xử lý kịp thời các vụ vi phạm Luật bảo vệ và phát triển rừng.
Trong tháng 4/2020, trên địa bàn tỉnh xảy
ra 02 vụ cháy rừng nằm ngoài quy hoạch, tổng diện tích thiệt hại 3,08 ha. Cụ
thể: Tại xã Hiếu Liêm (huyện Vĩnh Cửu) diện tích thiệt hại 1,48 ha rừng trồng
keo lai; Tại xã An Phước (H. Long Thành) diện tích thiệt hại 1,6 ha rừng trồng
keo lai.
Ngoài ra, trên địa bàn tỉnh còn xảy ra 03 vụ
cháy thực bì, cây bụi, trảng cỏ: Khu vực núi Chứa Chan (H.Xuân Lộc) diện tích
cháy khoảng 10 ha; Khu Bảo tồn thiên nhiên - văn hóa Đồng Nai (H. Vĩnh Cửu)
diện tích cháy khoảng 3,18 ha; Vườn Quốc gia Cát Tiên (H. Tân Phú) diện tích
cháy khoảng 26 ha.
Các vụ cháy trên đã được phát hiện, dập tắt
kịp thời nên hạn chế được cháy lan, không gây ảnh hưởng đến tài nguyên rừng,
nguyên nhân xảy ra cháy đang xác định.
c. Thủy sản
Tình hình nuôi trồng thủy sản trong tháng phát triển ổn định, không
phát sinh dịch bệnh trên thủy sản nuôi. Người nuôi trồng thủy sản đã chú trọng
đến đầu tư thâm canh tăng năng suất, để đạt được hiệu quả kinh tế cao, mặt khác
cần quản lý tốt khâu thức ăn cho thủy sản, đồng thời bổ sung các loại thức ăn
vi lượng, vitamin để tăng cường sức đề kháng cho vật nuôi và cẩn thận đối với
môi trường nước do đó dịch bệnh không xảy ra.
Dự ước sản lượng thủy sản tháng 4/2020 đạt 5.694,75 tấn, tăng 8,15%
so cùng kỳ. Lũy kế 4 tháng đạt 22.092,61 tấn, tăng 4,71%, trong đó: cá đạt
19.660,29 tấn tăng 4,92%; tôm đạt 2.159,8 tấn, tăng 3,64%; thủy sản khác đạt
272,52 tấn, giảm 1,74% so cùng kỳ.
3. Thương mại, xuất nhập khẩu, vận tải và du lịch
a. Thương mại
Tổng mức bán lẻ hàng hoá và dịch vụ tháng 4 năm 2020 ước đạt 12.429,83
tỷ đồng, giảm 14,66% so tháng trước. Dự ước 4 tháng đầu năm 2020, tổng mức bán
lẻ hàng hóa và dịch vụ đạt 58.502,19 tỷ đồng, tăng 0,96% so cùng kỳ. Trong đó: Kinh tế nhà nước giảm
8,86%; kinh tế ngoài nhà nước tăng 1,92%; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài giảm 8%.
Tình hình bán lẻ hàng hoá và
doanh thu dịch vụ tháng 4 và 4 tháng/2020 phân theo ngành hoạt động
- Tổng mức bán lẻ hàng hóa tháng 4/2020 dự ước đạt 10.672,34 tỷ đồng, giảm 8,31% so tháng
trước, giảm 2,23% so tháng cùng kỳ năm trước. Do trong tháng 4 thực hiện theo Chỉ thị 16/CT-TTg
của Thủ tướng Chính phủ về thực hiện các giải pháp cấp bách phòng chống dịch
covid-19, cả nước nói chung và tỉnh Đồng Nai nói riêng thực hiện việc cách ly
toàn xã hội, một số người tiêu dùng tập trung mua hàng tích trữ vào những ngày
cuối tháng 3, mặt khác trong tháng 4 các hoạt động thương mại diễn ra khá trầm
lắng do tâm lý người dân hạn chế tập trung nơi đông người đã tác động tới sức
tiêu thụ hàng hóa trên thị trường làm cho doanh thu thương mại trong tháng giảm
so tháng trước và giảm so tháng cùng kỳ. Dự ước 4 tháng/2020
đạt 46.542,42 tỷ đồng, tăng 5,97% so cùng kỳ. Cụ thể ở một số nhóm ngành như
sau:
+ Nhóm lương thực, thực phẩm dự tính tháng 4 đạt
2.563,1 tỷ đồng, giảm 9,05% so tháng trước, giảm 2,73% so cùng kỳ năm trước. Dự
ước 4 tháng/2020 đạt 11.560,75 tỷ đồng, tăng 7,44% so cùng kỳ.
+ Nhóm hàng may mặc
ước đạt 411,96 tỷ đồng, giảm 10,23% so tháng trước và giảm 8,21% so tháng cùng
kỳ. Dự ước 4 tháng/2020 đạt 1.881,26 tỷ đồng, tăng 3% so cùng kỳ.
+ Nhóm vật phẩm văn hóa giáo dục ước đạt 95,31
tỷ đồng, giảm 3,16% so tháng trước và giảm 10,22% so tháng cùng kỳ. Do ảnh
hưởng của dịch bệnh Covid-19 học sinh tại các trường học cũng như tại các trung
tâm được nghỉ học dài ngày nên nhu cầu sử dụng dụng cụ học tập và giảng dạy
giảm. Mặt khác nhu cầu sử dụng các dụng cụ thể thao trong vui chơi giải trí
cũng giảm mạnh. Dự ước 4 tháng/2020 đạt 404,62 tỷ đồng, giảm 3,94% so cùng kỳ.
+ Nhóm Gỗ và vật liệu xây
dựng dự ước tháng 4 đạt 1.489,58 tỷ đồng, giảm 7,87% so tháng trước, giảm 1,64%
so cùng kỳ năm trước. Dự ước 4 tháng đầu năm 2020 đạt 6.335,86 tỷ đồng, tăng
4,88 so cùng kỳ. Do ảnh hưởng của dịch
covid-19 hầu hết các hoạt động xây dựng tạm dừng thi công, nhu cầu sử dụng vật
liệu xây dựng giảm đã làm cho doanh thu trong tháng giảm so tháng trước.
+ Nhóm Xăng, dầu các loại ước đạt
1.398,36 tỷ đồng, giảm 7,54% so tháng trước và giảm 2,52% so tháng cùng kỳ; giá xăng dầu thế giới giảm dẫn tới giá
xăng dầu trong nước cũng giảm mạnh, mặt khác do nhu cầu sản xuất kinh doanh
cũng như đi lại giảm đã làm cho doanh thu giảm. Dự ước 4
tháng đầu năm 2020 đạt 6.038,17 tỷ đồng, tăng 5,9 so cùng kỳ.
+ Nhóm nhiên liệu khác ước đạt 142,83 tỷ đồng, giảm 12,61% so tháng trước
và giảm 9,07% so tháng cùng kỳ; do giá gas trong tháng giảm mạnh. Mặt khác thực hiện theo chỉ thị 16/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ,
tạm dừng các hoạt động kinh doanh ăn uống...làm cho nhu cầu sử dụng nhiên liệu
giảm dẫn đến doanh thu giảm.
+ Nhóm vàng, bạc, đá quý, kim loại quý ước đạt 314,3
tỷ đồng, giảm 1,36% so tháng trước, tăng 8,69% so cùng kỳ năm trước. Dự ước 4
tháng đầu năm 2020 đạt 1.264,02 tỷ đồng, tăng 10,28 so cùng kỳ. Do ảnh hưởng
của giá vàng thế giới trong tháng giảm đã làm cho giá vàng trong nước giảm, vì
vậy doanh thu nhóm này giảm so tháng trước. Tuy nhiên vẫn tăng cao so cùng
tháng năm trước và so cùng kỳ.
- Doanh thu dịch vụ lưu trú tháng 4/2020 ước đạt 5,84 tỷ đồng, giảm 59,83% so tháng trước, giảm 78,48% so
cùng tháng năm trước. Lượt khách phục vụ đạt 54.903 lượt khách, giảm 61,73% so
tháng trước và so cùng kỳ giảm 80,33%; Ngày khách phục vụ đạt 36.481 ngày, giảm
63,54% so tháng trước và so cùng kỳ năm trước giảm 82,43%. Dự ước 4 tháng đầu
năm 2020 đạt 68,41 tỷ đồng, giảm 36,82% so
cùng kỳ. Lượt khách phục vụ đạt 685.125 lượt khách, so cùng kỳ giảm 38,55%;
Ngày khách phục vụ đạt 494.289 ngày, so cùng kỳ giảm 40,35%. Ngành dịch vụ lưu
trú là ngành ảnh hưởng mạnh của dịch Covid-19 vì tạm ngưng các hoạt động thuộc
loại hình dịch vụ này trong thời gian dài.
- Dịch vụ ăn uống ước đạt 714,25 tỷ đồng, giảm 34,62% so tháng trước, giảm 45,85% so
tháng cùng kỳ. Dự ước 4 tháng đầu năm 2020 đạt 4.443,56 tỷ đồng, giảm 15,8% so cùng kỳ. Hoạt động dịch vụ này cũng chịu ảnh
hưởng lớn do tạm ngưng kinh doanh ăn uống, nhà hàng, quán cà phê giải
khát.v.v..
- Dịch vụ lữ hành và hoạt động hỗ
trợ du lịch ước đạt 0,39 tỷ đồng, giảm 85,78%
so tháng trước, giảm 95,35% so tháng cùng kỳ năm trước. Lượt khách du lịch theo
tour 612 lượt, giảm 85,74% so tháng trước và so tháng cùng kỳ năm trước giảm
95,6%; Ngày khách du lịch theo tour 1.084 ngày, giảm 87,91% so tháng trước và
so tháng cùng kỳ năm trước giảm 96,39%. Dự ước 4 tháng đầu năm 2020 đạt 17,87
tỷ đồng, giảm 46,23% so cùng kỳ. Lượt
khách du lịch theo tour 28.665 lượt, so cùng kỳ giảm 48,12%; Ngày khách du lịch
theo tour 62.195 ngày, giảm 47,91% so cùng kỳ.
Do ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19, nhiều đơn vị kinh doanh ngành dịch vụ lưu trú, ăn uống, du lịch lữ
hành trong tháng 3 và tháng 4 đã phải tạm ngưng hoạt động nên không có doanh
thu. Bên cạnh đó, việc áp dụng “Nghị định 100/2019/NĐ-CP ngày 30/12/2019, Quy định xử
phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt” đã ảnh
hưởng không nhỏ tới doanh thu của các đơn vị kinh doanh ăn uống dẫn tới doanh thu ngành lưu trú, ăn uống,
du lịch lữ hành giảm.
- Doanh thu dịch vụ khác tháng 4 ước đạt 1.037 tỷ đồng, giảm 42,87% so tháng trước; giảm 52,16%
so cùng tháng năm trước. Dự ước 4 tháng đạt 7.429,93 tỷ đồng, giảm 13,64% so
cùng kỳ. Cụ thể ở một số ngành như:
+ Doanh thu dịch
vụ kinh doanh bất động sản: Ước đạt 263,15 tỷ đồng, giảm 50,19% so tháng trước,
giảm 58,57% so tháng cùng kỳ năm trước. Nguyên nhân giảm so tháng trước là do
ảnh hưởng của dịch bệnh covid-19 nhiều đơn vị kinh doanh vui chơi giải trí,
thương mại, sản xuất…kinh doanh thua lỗ, một số đơn vị đóng cửa, trả mặt bằng
nên doanh thu cho thuê mặt bằng giảm. Dự ước 4 tháng/2020 đạt 2.166,2 tỷ đồng, giảm
14,32% so cùng kỳ.
+ Doanh thu dịch
vụ hành chính và dịch vụ hỗ trợ: Ước đạt 170,29 tỷ đồng, giảm 30,66% so tháng
trước, giảm 32,98% so cùng kỳ năm trước. Thực hiện theo chỉ thị về việc thực
hiện các biện pháp cấp bách phòng, chống dịch Covid-19, các đơn vị kinh doanh
các ngành không thiết yếu đã chủ động tạm ngưng hoạt động trong thời gian thực
hiện cách ly xã hội nên các dịch vụ hành chính, hỗ trợ như in ấn, photocopy,
cho thuê máy móc thiết bị, lao động và việc làm, vệ sinh nhà cửa… giảm so tháng
trước. Dự ước 4 tháng/2020 đạt 953,78 tỷ đồng, giảm 5,79% so cùng kỳ.
+ Dịch vụ giáo dục
và đào tạo: Ước đạt 40,39 tỷ đồng, giảm 57% so tháng trước, so với tháng cùng
kỳ năm trước giảm 75,53%. Dự ước 4 tháng đầu năm 2020 đạt 442,67 tỷ đồng, giảm 32,39%
so cùng kỳ. Do tình hình dịch Covid-19 đang diễn biến phức tạp, UBND tỉnh yêu
cầu các đơn vị hoạt động ngành giáo dục cho trẻ em mầm non, học sinh tiểu học,
trung học cơ sở, THPT, học viên, sinh viên tạm thời nghỉ học đến hết ngày 3/5/2020
nên doanh thu của các trung tâm giáo dục ngoại ngữ, tin học… và các cơ sở giáo
dục tư nhân khác giảm mạnh so tháng cùng kỳ.
+ Dịch vụ y tế và hoạt động trợ giúp xã hội: Ước đạt 145,88 tỷ
đồng, giảm 14,33% so tháng trước, giảm 6,29% so cùng kỳ năm trước. Dự ước 4
tháng đầu năm 2020 đạt 661,03 tỷ đồng, tăng 7,79% so cùng kỳ. Do trong thời
gian thực hiện cách ly xã hội và tâm lý e ngại tới những nơi đông người nên
người dân hạn chế tới các đơn vị y tế thăm khám khi không thật sự cần thiết đã
làm cho doanh thu dịch vụ y tế và hoạt động trợ giúp xã hội tháng 4 giảm.
Tổng mức bán lẻ hàng hóa, dịch vụ tháng 4 và 4 tháng đầu năm 2020
Đơn vị tính:
Tỷ đồng
|
Kế hoạch
2020
|
Dự ước
4 tháng năm 2020
|
Chính thức 4 tháng năm 2019
|
Cơ cấu (%)
|
Ước 4 tháng năm 2020 so
cùng kỳ (%)
|
Tổng mức bán lẻ
|
193.100
|
58.502,19
|
57.943,33
|
100,00
|
100,96
|
- Thương nghiệp
|
|
46.542,42
|
43.921,20
|
79,56
|
105,97
|
- Khách sạn, nhà
hàng
|
|
4.511,97
|
5.385,93
|
7,71
|
83,77
|
- Du lịch, lữ
hành
|
|
17,87
|
33,24
|
0,03
|
53,76
|
- Dịch vụ
|
|
7.429,93
|
8.602,96
|
12,70
|
86,36
|
b. Giá cả thị trường
Tháng 4 tình hình
kinh tế trong nước tiếp tục bị ảnh hưởng do dịch covid - 19; Một số loại hình
sản xuất kinh doanh hạn chế hoạt động, kinh doanh ăn uống tạm ngưng cũng đã tác
động ảnh hưởng đến giá cả. Chỉ số giá tiêu dùng tháng 4 giảm 1,68% so tháng trước;
so với tháng 4 năm trước tăng 2,38%; giảm
0,82% so tháng 12 năm trước; chỉ số giá bình quân 4 tháng năm 2020 tăng 4,6% so
cùng kỳ.
Tình hình giá cả các loại hàng hóa tăng, giảm như sau:
* Chỉ số giá tiêu dùng
-
Nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống: Chỉ số giá nhóm này so tháng trước tăng 1,01%;
tăng 11,53% so cùng tháng năm trước; tăng
5,28% so tháng 12 năm trước và tăng 9,96% so bình quân cùng kỳ. Trong đó:
Nhóm hàng lương thực so tháng trước tăng 3,74%; so cùng tháng năm trước tăng 6,18% và
bình quân cùng kỳ tăng 1,83%. Nguyên nhân là do ở nhiều địa
phương nhu cầu sử dụng gạo để hỗ trợ người có hoàn cảnh khó khăn trong mùa dịch
covid tăng, trong khi vụ thu hoạch Đông – Xuân đã kết thúc. Bên cạnh đó do ảnh
hưởng của thời tiết nắng nóng
và hạn mặn ở nhiều tỉnh phía Nam nên việc xuống
giống vụ mới gặp nhiều khó khăn. Cụ thể nhóm gạo tẻ thường tăng 5,01%; gạo tẻ
ngon tăng 2,81%.
Nhóm hàng thực phẩm
tăng 0,63% so tháng trước; so cùng tháng năm trước tăng 13,5%; so tháng 12 năm
trước tăng 4,52% và so bình quân cùng kỳ tăng 11,79%. Mặc dù đã có sự chỉ đạo của Chính phủ thực hiện các biện pháp giảm
giá heo hơi và các mặt hàng thịt heo, tuy nhiên trong tháng 4 giá các mặt hàng
thịt heo vẫn tăng so tháng trước do sản lượng heo thịt trong dân không có
nhiều, việc tái đàn trở lại còn nhiều hạn chế, một số chủ trang trại có tái đàn
nhưng lại chưa đến kỳ xuất bán; trong khi lượng heo cung cấp ra thị trường của
các doanh nghiệp chăn nuôi còn hạn chế đã dẫn tới cung không đủ cầu đã làm cho
giá tăng… các mặt hàng heo
thịt so tháng trước tăng bình quân 2,46%.
- Nhóm may
mặc, mũ, nón, giày dép: Chỉ số giá nhóm này so tháng trước giảm 0,02%; so tháng 12 năm trước
tăng 1,76%; so cùng tháng năm trước tăng 1,76% và so bình quân cùng kỳ tăng
1,51%. Do ảnh hưởng của dịch covid người dân hạn chế tập trung đông người, do
đó nhu cầu mua sắm không cao nên giá các mặt hàng này giảm nhẹ.
- Nhóm Nhà ở, điện, nước, chất đốt và VLXD: Chỉ số giá nhóm nhà ở, điện, nước, chất đốt và VLXD giảm 2,86%
so tháng trước, so cùng tháng năm trước giảm 1,26%, so tháng 12 năm trước giảm
1,64% và so bình quân cùng kỳ tăng 3,06%. Do ảnh hưởng của dịch Covid-19 nhiều
cửa hàng kinh doanh đóng cửa, để hỗ trợ cho người thuê mặt bằng các chủ nhà đã
giảm giá cho thuê. Mặt khác một số chủ nhà trọ đã giảm giá cho thuê phòng trọ
cho công nhân để giảm bớt khó khăn do dịch bệnh gây ra nên giá giảm. Trong
tháng 4/2020 theo quy định giá mặt hàng điện được điều chỉnh giảm, tuy nhiên
hiện nay đang vào cao điểm của mùa nắng nên nhu cầu sử dụng điện vẫn tăng làm
cho giá điện vẫn ở mức tăng 0,54%, giá nước và dịch vụ nước tăng tăng 1,95%.
Đồng thời trong tháng 4 giá mặt hàng
gas và dầu hỏa tiếp tục giảm mạnh do ảnh
hưởng của giá thế giới giảm làm cho giá trong nước giảm như:
gas giảm 21,4%; dầu hỏa giảm 30,44%.
- Nhóm giao thông: Chỉ số giá nhóm này
giảm 14,64% so tháng trước; so cùng tháng năm trước giảm 21,05%; so tháng 12
năm trước giảm 21,05% và bình quân cùng kỳ giảm 3,72%. Tháng 4 giá các mặt
hàng xăng, dầu giảm mạnh do ảnh hưởng của giá thế giới giảm. Trong đó chỉ số nhóm nhiên liệu giảm 27,21%. Cụ thể: Xăng
A95 từ 18.028 đồng/lít giảm còn 12.303 đồng/lít (-31,76%); Xăng E5 từ
17.158 đồng/lít giảm còn 11.604 đồng/lít (-32,37%); Dầu diezen từ 13.877 đồng/lít giảm
còn 11.006 đồng/lít (-20,69%).
- Nhóm Văn hóa, giải trí và du lịch: Chỉ số giá nhóm này giảm 1,1%
so tháng trước; giảm 1,54% so cùng tháng năm trước; giảm 2,31% so tháng 12 năm
trước. Do ảnh hưởng của dịch covid-19 nên nhu cầu di du lịch trong và ngoài
nước của người dân giảm mạnh, nhiều tour du lịch bị hủy, hiện nay giá các tour
du lịch cũng giảm nhằm thu hút khách hàng trong thời gian tới nếu hết dịch
bệnh.
- Các nhóm còn lại có chỉ số giá ổn định, tăng
giảm không nhiều.
* Giá vàng: Giá vàng trong tháng tiếp tục
biến động, giá vàng tăng 0,69% so tháng trước; so cùng tháng năm trước tăng 24,69%;
so tháng 12 năm trước tăng 11,32% và bình quân cùng kỳ tăng 21,94%.
* Giá Đô la Mỹ: Chỉ số giá Đô la Mỹ
tháng này tăng 1,17% so tháng trước; so với cùng tháng năm trước tăng 1,63%; so
tháng 12 năm trước tăng 1,79% và so bình quân cùng kỳ tăng 0,4%.
c. Xuất, nhập khẩu hàng hóa
Hoạt động kim ngạch xuất, nhập khẩu tháng 4 năm 2020 có sự biến
động ở một số thị trường và mặt hàng; do ảnh
hưởng của dịch bệnh Covid-19
các Doanh nghiệp xuất, nhập khẩu mặt hàng nông sản,
nguyên phụ liệu dệt, may, da, giày của thị trường Trung Quốc, Châu Âu giảm
mạnh. Mặt khác thị trường xuất khẩu ở các nước trên thế giới giảm mạnh, nhất là
các thị trường truyền thống đã ảnh hưởng đến kim ngạch xuất khẩu. Tình hình
xuất, nhập khẩu hàng hóa tháng 4 năm 2020 như sau:
- Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa tháng 4 ước đạt
1.500 triệu USD, giảm 5,45% so tháng trước. Dự ước kim ngạch xuất khẩu 4 tháng
đầu năm 2020 đạt 6.063,29 triệu USD, tăng 0,85% so cùng kỳ, trong đó: Kinh tế
nhà nước đạt 142,53 triệu USD, tăng 0,43%; kinh tế ngoài nhà nước đạt 1.060,72
triệu USD, tăng 0,74%; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đạt 4.860,03 triệu USD,
tăng 0,89% so cùng kỳ.
Một số ngành hàng xuất khẩu 4 tháng đầu năm 2020 tăng, giảm so cùng
kỳ như sau: Hạt điều ước đạt 66,95 triệu USD
(-23,78%); Cà phê ước đạt 183,78 triệu USD (+28,93%); Hạt tiêu ước đạt 14,56
triệu USD (+48,98%); Cao su ước đạt 13,5 triệu USD (-21%); Sản phẩm gỗ đạt
442,52 triệu USD (+1,9%); Hàng dệt may đạt 581,5 triệu USD (-5,38%); Giày dép
các loại ước đạt 1.390,09 triệu USD (+7,03%); Máy vi tính, sản phẩm điện tử đạt
186,34 triệu USD (-2,93%); Máy móc thiết bị ước đạt 540,22 triệu USD (+7,63%);
Phương tiện vận tải và phụ tùng đạt 295,9 triệu USD (+5,25%); Xơ, sợi dệt đạt
410,55 triệu USD (-15,92%); Sản phẩm từ chất dẻo ước đạt 109,82 triệu USD
(-2,86%); Sản phẩm sắt thép đạt 197,57 triệu USD (-15,58%) so cùng kỳ.
Thị trường xuất khẩu tập trung chủ yếu ở các thị trường chủ lực
truyền thống như: Hoa Kỳ: ước đạt 1.700 triệu USD, chiếm 29,26%; Nhật Bản:
682,4 triệu USD, chiếm 11,9%; Trung Quốc: 638,99 triệu USD, chiếm 11,1%; Hàn
Quốc: 360,8 triệu USD, chiếm 6,3%; Đức: 194 triệu USD, chiếm 3,4%… Các thị
trường khác cũng có kim ngạch xuất khẩu khá cao như Hong Kong, Bỉ, Úc, Thái
Lan.
- Kim ngạch nhập khẩu tháng 4 năm 2020 ước đạt 1.261,07 triệu USD,
giảm 4,69% so tháng trước. Dự ước 4 tháng đạt 4.742,79 triệu USD, giảm 6,83% so
cùng kỳ. Nguyên nhân kim ngạch nhập khẩu 4 tháng đầu năm 2020 giảm là do ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19 đã làm ảnh hưởng đến tình hình nhập khẩu của các
doanh nghiệp, nhất là đối với các mặt hàng xơ, sợi dệt các loại; nguyên phụ
liệu dệt, may, da, giày nhập khẩu chủ yếu từ thị trường Trung Quốc. Cụ thể, một
số mặt hàng biến động như sau: Thức ăn gia súc và nguyên liệu ước đạt 284,03
triệu USD (+14,82%); Chất dẻo nguyên liệu ước đạt 445,23 triệu USD (-5,79%);
Vải các loại 274,9 triệu USD (-7,62%); Nguyên phụ liệu dệt, may ước đạt 263,86
triệu USD (-5,36%); Bông ước đạt 224,34 triệu USD (-2,36%); Sắt thép các loại
ước đạt 309,07 triệu USD (-26,09%); Máy móc thiết bị ước đạt 540,33 triệu USD
(-4,97%)…
Thị trường nhập khẩu chủ lực trong 4
tháng/2020 là: Trung Quốc: ước đạt 970,68 triệu USD, chiếm 21,1% và giảm 3,8%;
Hàn Quốc: ước đạt 764,1 triệu USD, chiếm 16,6%, giảm 14,5%; Đài Loan ước đạt
595,1 triệu USD, chiếm 13%, tăng 21,3%; Nhật Bản ước đạt 448,3 triệu USD, chiếm
9,8%, giảm 19,5%; Hoa kỳ ước đạt 413,8 triệu USD, chiếm 9%, giảm 16,27% so cùng
kỳ. Các thị trường khác có kim ngạch nhập khẩu khá cao như: Thái Lan, Brazil,
Indonesia…
chiếm tỷ trọng từ 1,9% đến 6% tổng kim ngạch nhập khẩu.
d. Hoạt
động vận tải
Thực hiện chỉ
đạo của Thủ tướng chính phủ tại Chỉ thị số 16/CT-TTG ngày 31/3/2020 về việc
thực hiện các biện pháp cấp bách phòng, chống dịch CoVid-19. Chủ tịch UBND tỉnh
Đồng Nai đã ban hành Chỉ thị 09/CT-UBND về việc thực hiện các biện pháp cấp bách
phòng, chống dịch Covid-19 và giao cho Sở giao thông vận tải chủ trì, phối hợp
với Công an tỉnh, Ủy ban nhân dân các huyện, thành phố chỉ đạo dừng hoạt động
giao thông đường thủy công cộng (bến đò, phà…). Đồng thời, dừng việc di chuyển
từ Đồng Nai đến các vùng có dịch và ngược lại, cũng không di chuyển qua lại với
các địa phương khác trên cả nước trừ trường hợp đặc biệt đến hết ngày
22/04/2020. Do đó, hoạt động vận tải hành khách, hàng hóa và các dịch vụ hỗ trợ
vận tải tháng 4/2020 giảm so tháng trước và giảm sâu so tháng cùng kỳ cả về
doanh thu và sản lượng. Cụ thể:
Hoạt động vận tải, kho bãi tháng 4/2020: Doanh thu vận tải kho bãi dự ước đạt 941,7 tỷ đồng, giảm 16,29% so
tháng trước, giảm 34,64% so cùng kỳ năm trước.
+ Doanh thu vận tải hành khách tháng 04/2020 dự tính đạt 64,9 tỷ đồng, giảm
43,51% so tháng trước và giảm 66,24% so cùng kỳ năm trước; khối lượng vận
chuyển ước đạt 1.824 nghìn HK, giảm 43,92% so tháng trước và giảm 67,89% so
cùng kỳ năm trước; khối lượng luân chuyển ước đạt 79.636 nghìn HK.km, giảm
44,21% so tháng trước và giảm 68,12% so cùng kỳ năm trước.
+ Doanh
thu vận tải hàng hóa tháng 04/2020 ước đạt 561,8 tỷ đồng, giảm 17,51% so tháng
trước và giảm 29,89% so cùng kỳ năm trước; khối lượng vận chuyển ước đạt 3.768
nghìn tấn, giảm 17,39% so tháng trước và giảm 29,32% so cùng kỳ năm trước; khối
lượng luân chuyển ước đạt 281.384 nghìn tấn.km giảm 17,69% so tháng trước và giảm 29,96% so cùng kỳ năm
trước.
+ Doanh thu kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận
tải tháng 04/2020 ước đạt 305,1 tỷ đồng, giảm 4,29% so tháng trước và giảm 29,86% so cùng kỳ năm trước. Nguyên nhân giảm là do ảnh hưởng của dịch
bệnh Covid-19 hoạt động vận chuyển hành khách giảm sâu nên doanh thu của ngành
thu phí đường bộ giảm (ngành thu phí đường bộ chiếm tỷ trọng 42% trong nhóm kho
bãi) nên làm cho doanh thu của nhóm kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải tháng này
giảm so tháng trước.
Hoạt động vận tải, kho bãi 4 tháng đầu năm 2020: Dự ước doanh thu đạt 5.161,66 tỷ đồng, giảm 12,56% so cùng kỳ.
+ Vận tải hành khách 4 tháng đầu năm 2020 dự tính đạt 560,9 tỷ đồng, giảm
27,41% so cùng kỳ; Sản lượng vận chuyển hành khách ước đạt 15.158 nghìn HK,
giảm 29,83% và luân chuyển ước đạt 712.212 nghìn HK.Km, giảm 32,51% so cùng kỳ. Trong đó: Đường bộ đạt 14.806 ngàn hành khách vận
chuyển, giảm 30% và 712.004 ngàn hành khách.km luân chuyển,
giảm 32,51%; đường sông đạt
352,1 ngàn
hành khách vận chuyển, giảm 19,49% và 208,2 ngàn hành khách.km luân chuyển, giảm 21,29%.
+ Vận tải
hàng hoá 4 tháng đầu năm 2020 dự tính đạt 2.887,1 tỷ đồng, giảm 9,02% so cùng
kỳ; Khối lượng vận chuyển hàng hóa ước đạt 19.009 nghìn.tấn, giảm 9,99%, luân
chuyển hàng hóa đạt 1.388.918 nghìn tấn.Km giảm 10,21% so cùng kỳ. Trong đó: Đường bộ đạt 18.557 ngàn tấn vận chuyển, giảm 9,98% và
1.312.479 ngàn tấn.km luân chuyển, giảm 10,22%; đường sông đạt 452,2 ngàn tấn
vận chuyển, giảm 10,6% và 76.438,8 ngàn tấn.km luân chuyển, giảm 10,09%.
+
Doanh thu kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải 4 tháng/2020 ước đạt 1.667,64 tỷ
đồng, giảm 12,66% so cùng kỳ.
4. Đầu tư phát triển
Dự ước thực hiện vốn đầu tư bằng nguồn vốn ngân
sách Nhà Nước do địa phương quản lý tháng 4 năm 2020 thực hiện 255,16 tỷ đồng, giảm
sâu so với tháng 3 năm 2020 (-13,8%), 4 tháng năm 2020 thực hiện 1.239,92 tỷ
đồng, giảm 10% so cùng kỳ và bằng 16,2% so kế hoạch năm 2020. Nguyên nhân giảm
so tháng 3 và so cùng kỳ là do ảnh hưởng dịch bệnh Covid-19 do đó làm ảnh hưởng
đến tiến độ thực hiện các dự án chậm hơn so tháng 3/2020 và so với cùng kỳ.
Tình hình thực hiện các nguồn vốn đầu tư thuộc nguồn vốn ngân sách địa phương
như sau:
a. Vốn ngân sách nhà nước cấp
tỉnh quản lý
Ước tháng 4 năm 2020 thực hiện 156,96 tỷ đồng,
giảm 13,4% so với tháng 3/2020, ước 4 tháng năm 2020 thực hiện 757,85 tỷ đồng,
giảm 8,7% so cùng kỳ và bằng 16,1% so với kế hoạch năm.
Tình hình thực hiện công
trình trọng điểm trong tháng 4/2020 như sau:
Dự án mở rộng, tu bổ tôn tạo di tích đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh: Vốn kế hoạch 2020 là 57
tỷ đồng. Dự ước khối lượng thực hiện trong tháng 4/2020 là 850 triệu đồng, lũy
kế 4 tháng 6,5 tỷ đồng; Dự án Đường
kết nối vào cảng Phước An (đoạn từ đường 319 đến nút giao cắt với đường cao tốc
Bến Lức – Long Thành), Vốn kế hoạch 2020 được ghi vốn: 38,20 tỷ đồng. Dự ước khối lượng thực hiện
trong tháng 4/2020 là 18 tỷ đồng, dự ước lũy kế 4 tháng năm 2020 là 23 tỷ đồng; Dự án Cải tạo nâng cấp đường ĐT,768 đoạn từ
cầu Vượt Thủ Biên đến giao với đường ĐT,767, thị trấn Vĩnh An, huyện Vĩnh Cửu,
vốn kế hoạch 2020 được ghi vốn: 70 tỷ đồng. Dự ước khối lượng thực hiện trong
tháng 4/2020 là 472 triệu đồng.
Bên cạnh đó một số các công trình đang đầu tư như: Dự án nâng cấp đường ĐT 763 đoạn từ Km0+000
đến Km29+500 với tổng vốn kế hoạch 70 tỷ đồng năm 2020, dự ước tháng 4/2020
thực hiện 5 tỷ đồng. lũy kế 4 tháng 2020 là 49,2 tỷ đồng; Dự án hệ thống thoát nước khu vực suối nước
trong huyện Long Thành với tổng vốn kế hoạch năm 2020 là 110 tỷ đồng, dự ước 4
tháng năm 2020 là 1,5 tỷ đồng; Kè gia cố
bờ sông Đồng Nai đoạn từ khu dân cư dọc sông rạch cát phường Thống Nhất đến nhà
máy xử lý nước thải số 2 phường Tam Hiệp thành phố Biên Hòa-dự án đối ứng theo
cam kết với JICA khi triển khai dự án TNXLNT TP Biên Hòa giai đoạn 1 từ vốn
ODA. Vốn kế hoạch năm 2020 là 112 tỷ đồng. dự ước tháng 4/2020 thực hiện 11 tỷ
đồng. Lũy kế 4 tháng năm 2020 là 21,4 tỷ đồng.
Các dự án khác: Dự án xây
dựng nâng cấp mở rộng đường Đỗ Văn Thi xã Hiệp Hòa, TP. Biên Hòa: Dự ước tháng
4/2020 thực hiện 500 triệu đồng; Dự án xây dựng hồ chứa nước Cầu Dầu – TP. Long
Khánh: Dự ước thực hiện tháng 4/2020 là 700 triệu đồng; Dự án xây dựng nâng cấp
đường vào khu hành chính huyện Long Thành dự ước thực hiện tháng 4/2020 là 1 tỷ
đồng.
b. Nguồn vốn ngân sách nhà nước do cấp huyện quản lý:
Dự ước tháng 4 năm 2020 thực hiện 76,89 tỷ
đồng, giảm 14,23% so với tháng 3/2020 và giảm 35,69% so với cùng kỳ, ước 4 tháng năm 2020 thực hiện 382,59 tỷ đổng, giảm 10,98% so cùng kỳ và bằng 16,5% so kế
hoạch năm 2020. Tình hình thực hiện các công trình như sau: Dự án xây dựng
trung tâm hành chính huyện Long Thành dự ước thực hiện tháng 4/2020 là 1,4 tỷ
đồng; Dự án xây dựng đường vào khu TĐC ấp 3 xã Phú Lợi tháng 4/2020 ước
thực hiện 750 triệu đồng; Dự án làm đường Nguyễn Hữu Cảnh đoạn song hành QL1A từ đường Đinh Tiên Hoàng
đến ngã ba cây gáo H.Trảng Bom tháng 4/2020 ước thực hiện 670 triệu đồng; Dự án
xây dựng đường Cây Khế - Bưng Môn. Huyện Long Thành tháng 4/2020 ước thực hiện
450 triệu đồng.
c. Nguồn vốn ngân sách Nhà Nước do cấp xã quản lý:
Dự ước tháng 4 năm 2020
thực hiện 21,29 tỷ đồng, giảm 15,2% so tháng 3/2020 và giảm 34,61% so cùng kỳ,
ước 4 tháng năm 2020 thực hiện 99,47 tỷ đồng , giảm 14,94% so với cùng
kỳ và bằng 15,3% so kế hoạch. Nguyên nhân tháng 4/2020 giảm so với tháng 3/2020
là tháng thực hiện cách ly toàn xã hội thời gian nghỉ từ 15 ngày nên tiến độ
thi công các công trình đều bị chậm tiến độ.
5. Thu hút đầu tư
- Tổng vốn đăng ký cấp mới và dự án tăng vốn
Đầu tư trực tiếp của nước ngoài (FDI) đến ngày 20/4/2020 đạt 367 triệu USD,
bằng 56,1% so cùng kỳ, đạt 36,7% so kế hoạch. Trong đó: Cấp mới 29 dự án với
vốn đăng ký 93 triệu USD, bằng 37,8% so cùng kỳ; điều chỉnh vốn 41 dự án với
vốn bổ sung 274 triệu USD, tăng 128,1% so cùng kỳ.
- Tổng vốn đầu tư trong nước đăng ký cấp giấy
chứng nhận đầu tư, chủ trương đầu tư và điều chỉnh tăng vốn đến ngày 20/4/2020
là 7.406,7 tỷ đồng, tăng 141,4% so cùng kỳ, đạt 74% so kế hoạch. Trong đó: Cấp
giấy chứng nhận đầu tư cho 36 dự án với số vốn là 6.805,4 tỷ đồng, tăng 183% so
cùng kỳ; điều chỉnh tăng vốn 02 dự án với số vốn là 601,3 tỷ đồng, bằng 90,7%
so cùng kỳ.
- Tính từ đầu năm đến ngày 20/4/2020,
tổng vốn đăng ký thành lập mới doanh nghiệp và bổ sung tăng vốn là: 10.322,3 tỷ đồng, bằng 80,5% so với
cùng kỳ (năm 2019 là 12.816 tỷ đồng)
và đạt 38,9% so kế hoạch năm, trong đó số đăng ký thành lập mới là
990 doanh nghiệp với số vốn đăng ký là 8.504 tỷ đồng và 68 lượt doanh nghiệp đăng ký
tăng vốn với vốn đăng ký bổ sung là 1.818,3 tỷ đồng.
Lũy kế
đến ngày 15/4/2020 thực hiện hỗ trợ, soạn thảo được 212 hồ sơ đăng ký doanh
nghiệp, thông báo sử dụng mẫu dấu và đăng tải trên hệ thống thông tin đăng ký
doanh nghiệp quốc gia cho các cá nhân, doanh nghiệp có đề nghị
- Về tình hình giải thể doanh nghiệp, tạm
ngừng kinh doanh: Tính từ đầu năm
đến ngày 15/4/2020 có 108 doanh nghiệp giải thể với số vốn 1.526 tỷ đồng và 218
Chi nhánh, địa điểm kinh doanh và văn phòng đại diện chấm dứt hoạt động 303 doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh. Các doanh nghiệp này chủ yếu là doanh nghiệp
nhỏ và vừa và thuộc khu vực kinh tế tư nhân. Lý do giải thể và chấm dứt hoạt
động và tạm ngừng kinh doanh chủ yếu là do kinh doanh không hiệu quả.
6. Tài chính – Ngân hàng
a. Tài chính
Tổng thu ngân sách nhà
nước bốn tháng đầu năm ước đạt 19.100 tỷ đồng, đạt 35,9% dự toán năm và tăng
13,1% so với cùng kỳ. Trong đó: Thu nội địa là 14.300 tỷ đồng, đạt 40,1% so với
dự toán năm và tăng 25,6% so với cùng kỳ; Thu lĩnh vực xuất nhập khẩu 4.800 tỷ
đồng, đạt 27,4% dự toán năm và giảm 12,7% so với cùng kỳ.
Do ảnh hưởng chung của
dịch Covid-19 tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp
thuộc các lĩnh vực như dệt may, sợi, sản xuất thức ăn gia súc, gia cầm, sản
xuất giày dép, plastic, linh kiện điện tử... gặp nhiều khó khăn, nguyên nhân là
do các công ty này chủ yếu mua vật liệu từ Trung Quốc và một số công ty có bán
hàng sang Trung Quốc; Các doanh nghiệp và các hộ kinh doanh tại các chợ, khu
thương mại tập trung cũng giảm doanh thu bán hàng từ 30% - 40% do phải thực
hiện cách ly toàn xã hội trong vòng 15 ngày theo Chỉ thị số 16/CT-TTg ngày
31/3/2020 của Thủ tướng Chính phủ nên dự kiến trong các tháng tiếp theo sẽ còn
gặp rất nhiều khó khăn, từ đó ảnh hưởng đến thu ngân sách nhà nước trên địa bàn
tỉnh.
Dự ước tổng chi NSĐP bốn tháng đầu năm là
6.350 tỷ đồng, đạt 28,6% so với dự toán và tăng 5,54% so với cùng kỳ.
Trong đó: Chi đầu tư
phát triển 2.550 tỷ đồng, đạt 34,1% so dự toán và tăng 6,36% so cùng kỳ; Chi thường xuyên 3.800 tỷ đồng, đạt 28,2% so với dự toán đầu năm và tăng 5,05% so cùng kỳ.
b. Hoạt động ngân hàng
-
Hoạt động huy động vốn: Tổng nguồn vốn huy động của các TCTD trên địa
bàn ước đến 30/04/2020 đạt 203.498 tỷ đồng, tăng 2,33% so đầu năm. Trong đó: Tiền gửi bằng đồng
Việt Nam ước đạt 190.321 tỷ đồng, tăng 2,36% so đầu năm; Tiền gửi bằng ngoại tệ ước đạt 12.005 tỷ đồng, tăng 1,93% so đầu năm.
- Hoạt động tín dụng: Đến 30/04/2020 tổng dư nợ
cấp tín dụng trên địa bàn ước đạt 221.212 tỷ đồng, tăng 4,04% so với đầu năm (trong đó nợ xấu
ước chiếm 0,86% trên tổng dư nợ cho vay). Dư nợ cho vay tăng trưởng khá, chủ yếu cho vay
đối với các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh và một số lĩnh vực ưu tiên. Dư nợ ngắn hạn ước đạt 113.556 tỷ đồng, tăng 2,56% so đầu năm. Dư nợ trung, dài hạn ước đạt 105.568 tỷ đồng,
tăng 5,55% so đầu năm.
Hiện mặt bằng lãi suất cho vay VND phổ biến ở mức
6,0-9,0%/năm đối với ngắn hạn; 9,0-11%/năm đối với trung và dài hạn. Lãi suất cho vay USD phổ biến ở mức
3,0-6,0%/năm; trong đó lãi suất cho vay ngắn hạn phổ biến ở mức 3,0-4,7%/năm,
lãi suất cho vay trung, dài hạn ở mức 4,5-6,0%/năm.
- Hoạt
động thanh toán xuất nhập khẩu: Từ
đầu năm đến 30/04/2020 doanh số thanh toán hàng xuất khẩu ước đạt 1.527 triệu
USD, giảm 49,71 % so với cùng kỳ; thanh toán hàng nhập khẩu ước đạt 1.703 triệu
USD, giảm 22,53% so cùng kỳ.
Trước diễn biến phức tạp dịch Covid-19, Ngân
hàng Nhà nước Chi nhánh tỉnh Đồng Nai luôn cập nhật kịp thời và triển khai đầy
đủ đến các TCTD trên địa bàn các văn bản và chỉ đạo của Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam, UBND tỉnh liên quan đến công tác phòng, chống dịch bệnh và chỉ đạo các tổ chức tín dụng (TCTD) triển khai nhiều giải pháp
nhằm hỗ trợ khách hàng, tháo gỡ khó khăn, giảm thiểu thiệt hại do tác động của
dịch Covid-19.
Kết quả tháo gỡ khó khăn đối với khách hàng bị
ảnh hưởng bởi dịch Covid-19 (theo Công văn 1425/NHNN-TD ngày 06/3/2020 của NHNN
Việt Nam): Đến 31/3/2020, trên địa bàn có 127 khách hàng được cơ cấu lại thời hạn trả
nợ, miễn, giảm lãi vay với số tiền là 496,25 tỷ đồng.
7. Một số tình hình xã hội
a. Văn hóa thông tin
Tập trung tuyên truyền cổ
động trực quan các nhiệm vụ chính trị: Tuyên truyền Giỗ tổ Hùng Vương (10/3 Âm
lịch); kỳ họp Hội đồng nhân dân tỉnh Đồng Nai khóa IX, nhiệm kỳ 2016-2021;
tuyên truyền công tác phòng chống dịch
vi rut CoVid-19.
Thực hiện dựng 180m2 Pano, treo và
thực hiện 1000 lá cờ nội dung, cờ Tổ quốc; Treo 45 tấm Băng rôn trên các tuyến
đường chính trong TP.Biên Hòa, 42m2 Băng rôn tại cổng và tiền sảnh
UBND tỉnh; In căng 54m2 phông trong Hội trường UBND tỉnh. Biên tập,
thu âm, phát hành 500 đĩa CD và phát hành tranh cổ động tuyên truyền phòng
chống dịch vi rut CoVid-19 đợt 2 gửi cơ sở; In và phát hành 2.000 tranh cổ động
phòng chống dịch Covid – 19; Thực hiện 15 buổi chạy xe tuyên truyền phòng chống
dịch bệnh viêm đường hô hấp cấp CoVid-19.
b. Thể dục, thể thao
Công tác tổ
chức và tham gia các giải thể thao thành tích cao và các hoạt động thể dục thể
thao quần chúng khác đang tạm dừng để tiếp tục phòng, chống dịch Covid 19. Ban huấn luyện
các đội tuyển xây dựng giáo án cho vận động viên tự tập luyện tại nhà; thường
xuyên kiểm tra, báo cáo tình hình nhằm hạn chế ảnh hưởng đến quá trình tập luyện
và khả năng đáp ứng thi đấu của vận động viên ngay sau khi có lịch thi đấu từ Tổng
cục TDTT.
c. Giáo dục - Đào tạo
Theo Sở GD-ĐT kỳ thi tuyển sinh vào lớp 10 năm học 2020-2021 sẽ vẫn
tổ chức, thời điểm tổ chức thi tuyển sinh sẽ được điều chỉnh lại cho phù hợp
với tình hình của dịch Covid-19 và kế hoạch học sinh trở lại trường học tập bình
thường sau khi hết dịch. Việc duy trì thi tuyển sinh vào lớp 10 là cần thiết,
nhằm đảm bảo chất lượng tuyển sinh đầu vào, nhất là với các trường trên địa bàn
TP.Biên Hòa hàng năm có số lượng học sinh hoàn thành chương trình THCS nhiều và
có nguyện vọng thi vào lớp 10 các trường công lập luôn vượt quá khả năng tuyển
sinh của các trường.
Đối với học sinh lớp 12 và kỳ thi THPT quốc gia, Bộ GD-ĐT sẽ có
điều chỉnh kế hoạch cho phù hợp thực tế của diễn biến dịch Covid-19. Các trường
THPT trên địa bàn tỉnh đang cho học sinh ôn tập bằng nhiều hình thức để vượt
qua kỳ thi quan trọng trong thời gian tới. Chương trình giảng dạy kiến thức mới
lớp 12 trên sóng Đài PT-TH Đồng Nai đang tạm dừng nhưng việc học của học sinh
vẫn tiếp diễn. Hằng ngày, giáo viên vẫn hướng dẫn các em học và ôn tập trực
tuyến qua mạng. Với cách học và ôn tập như vậy, nhà trường và học sinh trên địa
bàn tỉnh đang nỗ lực vượt khó để tránh
được những bất lợi cho học sinh nếu kỳ thi THPT quốc gia năm 2020 vẫn diễn ra
như kế hoạch.
d. Y tế
Tính đến ngày 20/04/2020, trên địa bàn tỉnh Đồng Nai ghi nhận 01 trường hợp nhiễm Covid-19 đang được cách ly và điều trị tại Bệnh viện Phổi tỉnh và 56 trường hợp nghi ngờ, có yếu tố tiếp xúc dịch bệnh được cách ly
theo dõi tại các khu cách ly tập trung; Số người đang theo dõi tại cộng đồng là
182 trường hợp; 504 người đang theo dõi sức khoẻ tại cộng đồng (nhà, nơi lưu
trú).
Một số dịch
bệnh phát sinh trong 4 tháng như sau:
- Sốt xuất huyết: 970 trường hợp, giảm 63,92% so với cùng kỳ năm 2019 (2.689
trường hợp). Trong đó số trường hợp mắc SXHD ≤ 15 tuổi là 557 trường hợp, chiếm
tỷ lệ 57,43%. Không ghi nhận trường hợp tử vong.
Tổng số ổ dịch sốt
xuất huyết Dengue được xử lý và phát hiện trong tháng là 32/33 đạt tỷ lệ
96,97%. Số ổ dịch phát hiện giảm 69,81% so với cùng kỳ. Cộng dồn đến tháng 4
là 220 ổ dịch được xử lý trên 221 ổ dịch phát hiện, tỷ lệ xử lý ổ dịch đạt
99,5%.
- Sốt rét: Trong tháng ghi nhận 02 trường hợp mắc sốt rét (01
Plasmodium falciparum, 01 Plasmodium vivax) tăng 02 trường hợp so với
tháng trước, giảm 03 trường hợp so với cùng kỳ năm 2019 (05 trường hợp).
Không ghi nhận trường hợp tử vong.
- Sởi: Cộng dồn đến tháng 4 ghi nhận có 109 trường hợp, giảm 89% so với cùng kỳ 2019 (983 trường hợp).
Không ghi nhận trường hợp tử vong.
- Hội chứng tay chân miệng: Cộng dồn đến tháng 4 có 290 trường hợp, giảm 50,51% so với
cùng kỳ năm 2019 (586 trường hợp). Không ghi nhận trường hợp mắc bệnh tử vong.
* Hoạt động phòng, chống dịch
Sở Y tế đã chỉ đạo
các Trung tâm Kiểm soát bệnh tật và các Trung tâm Y tế huyện, thành phố đẩy mạnh
công tác phòng, chống dịch bệnh, đặc biệt là triển khai đồng bộ các biện pháp
phòng ngừa dịch bệnh viêm đường hô hấp cấp do chủng mới của vi rút Corona (COVID
- 19) gây ra ở dịch cấp độ 1 (có trường hợp bệnh xâm nhập trên địa bàn tỉnh), đồng
thời tăng cường kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện các giải pháp phòng, chống dịch
bệnh tại các đơn vị trực thuộc. Chuẩn bị đầy đủ cơ số cơ sở vật chất, trang thiết
bị, vật tư y tế, thuốc và hóa chất sẵn đáp ứng kịp thời cho công tác phòng, chống
dịch Covid – 19 theo từng cấp độ dịch và các dịch bệnh khác.
- Tình hình vệ sinh thực phẩm: Tiếp tục thực hiện tốt công tác
thanh kiểm tra liên ngành, xử lý nghiêm những cơ sở vi phạm các điều
kiện đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm trên địa bàn tỉnh. Trong tháng 4
thực hiện công tác kiểm tra, giám sát và tổ chức 1.293 lượt thanh tra, kiểm
tra cơ sở sản xuất, chế biến thực phẩm, dịch vụ ăn uống và kinh doanh tiêu dùng
thực phẩm, trong đó: 1.103 cơ sở đạt (chiếm 85,31%), số cơ sở vi phạm là
190, trong đó phạt tiền 05 cơ sở với 45,5 triệu đồng và nhắc nhở 185 cơ sở.
- Ngộ độc thực
phẩm: Trong tháng xảy ra 01 vụ ngộ độc thực phẩm với 149 người mắc.
e. Giải quyết việc làm
Trong tháng 4 năm 2020, giải quyết việc làm cho 4.393 lượt người. Trong đó: Các doanh
nghiệp tuyển dụng 2.435 lượt người; lồng
ghép các chương trình KTXH khác 1.958 lao động.
Tiếp nhận, giải
quyết 6.108 hồ sơ hưởng bảo hiểm thất nghiệp trong tháng, đã ban hành quyết
định hưởng trợ cấp thất nghiệp cho 4.609 người. Tư vấn và giới thiệu việc làm
cho số lao động thất nghiệp 6.545 lượt người; hỗ trợ học nghề cho 145 người.
Tính đến ngày 8/4/2020, trên địa bàn đã xảy ra 12 vụ tranh chấp lao
động tập thể dẫn đến đình công tại 12 doanh nghiệp (giảm 03 vụ so với cùng kỳ
năm 2019). Sở Lao động – thương binh và Xã hội đã phối hợp với Ban quản lý các
KCN, Phòng Lao động - Thương binh và Xã hội các huyện, thành phố thực hiện đồng
bộ nhiều giải pháp nhằm ổn định tình hình quan hệ lao động tại các doanh
nghiệp, không để đình công kéo dài ảnh hưởng đến tình hình sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp và tình hình an ninh trật tự trên địa bàn tỉnh.
*Theo báo cáo Sở Lao động – Thương binh
và Xã hội, số lao động ảnh hưởng bởi dịch Covid-19 là 65.959 người. Trong đó số
lao động mất việc, bỏ việc là 8.812 người; số lao động tạm nghỉ là 55.686
người. Trong tổng số lao động bị ảnh hưởng thì ngành công nghiệp chế biến, chế
tạo là 64.209 người, chiếm 97,3%. Số lao động đăng ký hưởng trợ cấp thôi việc
là 10.179 người. Trong đó: ngành may mặc, giày da, dệt, nhuộm 2.805 người
(chiếm 27,6%), ngành điện, điện tử, điện lạnh, lắp ráp điện 310 người (chiếm
3%), ngành xây dựng, kiến trúc, gỗ, trang trí nội thất 504 người (chiếm 4,9%),
ngành cơ khí, công nghệ lắp ráp ô tô, xe máy 403 người (chiếm 3,96%)…
f. Đào tạo nghề
Trong tháng 04 ảnh hưởng tình hình dịch bệnh Covid-19 diễn biến
phức tạp, nên một số cơ sở giáo dục nghề nghiệp trên địa bàn tỉnh triển khai
tuyển mới trực tuyến cho 1.553 người, trong đó: Sơ cấp và đào tạo thường xuyên
là 1.553 người. Toàn tỉnh có 516 người tốt nghiệp các khóa đào tạo, trong đó:
Sơ cấp và đào tạo thường xuyên: 516 người.
g. Công tác giảm nghèo
Tính đến cuối tháng 3 năm 2020, toàn
tỉnh cho vay tổng số hộ vay là 960 hộ. Trong đó số hộ nghèo vay 180 hộ với số
tiền 6.922 triệu đồng; hộ cận nghèo vay 609 hộ với số tiền 2.440 triệu đồng và
hộ thoát nghèo vay 171 hộ với số tiền 6.976 triệu đồng.
CỤC THỐNG KÊ ĐỒNG NAI