Thực hiện Nghị quyết số: 184/NQ-HĐND của
Hội đồng nhân dân tỉnh Đồng Nai về Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm
2020. UBND tỉnh sớm triển khai việc giao chỉ tiêu kế hoạch Kinh tế - xã hội năm 2020 cho các ngành và địa phương
làm căn cứ phấn đấu thực hiện và có sự chỉ đạo tích cực ngay từ những tháng đầu năm. Tuy nhiên do phát sinh dịch bệnh Covid-19 đã ảnh hưởng tiêu cực đến
tình hình kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh. Về sản xuất kinh doanh, số doanh
nghiệp gặp phải khó khăn về nguyên vật liệu đầu vào phục vụ cho sản xuất; thị
trường xuất khẩu giảm sâu, các đơn hàng từ Trung Quốc và một số nước đang có dịch bị ngưng trệ. Bên
cạnh đó do ảnh hưởng dịch bệnh các hoạt động khách sạn, nhà hàng ăn uống, dịch
vụ vui chơi giải trí tạm ngưng hoạt động một thời gian nên doanh thu ngành
Thương mại dịch vụ, Du lịch trên địa bàn giảm mạnh. Trước diễn biến
phức tạp dịch bệnh; thực hiện chỉ thị của
Ban Bí thư trung ương Đảng và Chỉ thị của Thủ Tướng Chính phủ; Tỉnh ủy và UBND
tỉnh vừa chỉ đạo, điều hành thực hiện quyết liệt các giải pháp phòng, chống
dịch bệnh Covid-19, vừa tiếp tục kiên định mục tiêu ổn định kinh tế, nỗ lực
phấn đấu cao nhất để đạt được mục tiêu tăng trưởng và các chỉ tiêu kinh tế - xã
hội đề ra. Trên
cơ sở kết quả thực hiện 8 tháng đầu năm và ước tính tháng 9, Cục Thống kê ước tình hình kinh tế - xã hội trên địa bàn 9 tháng năm 2020 như
sau:
1. Sản xuất công nghiệp
Trước diễn biến phức tạp của dịch bệnh Covid-19 trên cả nước nói
chung và Đồng Nai nói riêng tình hình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp
sản xuất công nghiệp trên địa bàn còn gặp nhiều gặp khó khăn, mức tăng trưởng
sản xuất công nghiệp thấp, đây là mức tăng thấp nhất trong nhiều năm qua. Một
số doanh nghiệp thuộc các ngành vẫn còn chịu ảnh hưởng nặng do dịch bệnh, nhất
là những doanh nghiệp sản phẩm xuất khẩu, đặc biệt một số ngành có chỉ số tăng
trưởng âm như điện tử, chế biến gỗ, sản xuất kim loại vv… tuy nhiên với sự chỉ
đạo điều hành quyết liệt của Chính phủ cùng với lãnh đạo, chỉ đạo lãnh đạo tỉnh
Đồng Nai đã tháo gỡ khó khăn, hỗ trợ doanh nghiệp vượt qua khó khăn như: miễn
giảm tiền thuê đất, giãn thuế, đặc biệt ngành Bảo hiểm cũng đã tích cực hỗ trợ
doanh nghiệp bằng việc tạm dừng việc nộp tiền BHXH cho trên 10 ngàn lao động, do đó
tình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp đã có những chuyển biến tích cực
hơn, đẩy nhanh sản xuất kinh doanh, tìm kiếm hợp đồng tiêu thụ
sản phẩm. Sau đây là chỉ số sản xuất công nghiệp tháng 9 và 9 tháng năm 2020
như sau:
- Chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) trên địa
bàn tỉnh tháng 9 năm 2020 tăng 2,45% so tháng trước. Trong đó: Khai khoáng tăng 3,39%; Công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 2,52%; Sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước tăng 1,92%; Cung
cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải giảm 0,88%. Trong các
ngành công nghiệp cấp II có một số ngành tăng so tháng trước như: sản xuất sản
phẩm từ kim loại đúc sẵn tăng 7,84%; Sản xuất đồ uống tăng 7,02%; sản xuất sản
phẩm cao su và plastic tăng 5,89%; sản xuất chế biến thực phẩm tăng 5,12%; sản
xuất giấy và các sản phẩm từ giấy tăng 4,92%; sản xuất gường, tủ, bàn ghế tăng
4,34%; sản xuất thiết bị điện tăng 4,31%; sản xuất da và các sản phẩm có liên
quan tăng 3,1%; sản xuất sản phẩm thuốc lá tăng 2,71%; sản xuất kim loại tăng
2,48%; Sản xuất trang phục tăng 1,52%... nguyên nhân tăng do nhu cầu tiêu thụ
một số mặt hàng tăng và thị trường tiêu thụ dần ổn định; các doanh nghiệp đã ký
được hợp đồng tiêu thụ sản phẩm, do vậy tình hình sản xuất nhiều ngành tăng so tháng trước. Tuy
nhiên tình hình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp nhìn chung vẫn khó
khăn, thị trường tiêu thụ sản phẩm vẫn chưa có sự phục hồi rõ nét, một số ngành
sản xuất chỉ số tháng 9 giảm so tháng 8 như: Sản xuất thiết bị điện tử, sản
xuất sản phẩm hóa chất, sản xuất phương tiện vận tải... ngoài ra một số ngành
tăng rất thấp.
Mặc dù dịch bệnh tái bùng phát lần 2 trong tháng 7, tuy nhiên với
sự chỉ đạo quyết liệt của lãnh đạo tỉnh trong việc vừa chống dịch vừa phát
triển kinh tế nên sản suất công nghiệp
quý III tăng khá so với quý II và tăng so cùng kỳ. Chỉ số sản xuất công nghiệp
quý III tăng 7,66% so cùng kỳ (quý I tăng 5,04%; quý II tăng 3,68%). Trong đó:
Ngành khai khoáng tăng 7,13%; ngành công nghiệp chế biến chế tạo tăng 8,15%; Sản xuất và phân
phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước tăng 0,86%; Cung cấp nước, hoạt động
quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 11,17%.
- Chỉ số sản xuất công nghiệp 9 tháng năm 2020
tăng 5,51% so cùng kỳ. Trong đó: ngành công
nghiệp khai thác mỏ tăng 6,25%; ngành công nghiệp chế biến tăng 5,99%; ngành
sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước giảm 1,26%; ngành cung
cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước tăng 8,47%. Trong các ngành
công nghiệp cấp II các ngành có sự tăng, giảm như sau: Ngành sản xuất chế biến
thực phẩm tăng 5,22% do các doanh nghiệp ngành chế biến thực phẩm, sản xuất chế
biến thức ăn gia súc vẫn ký được hợp đồng và nhu cầu tiêu thụ sản phẩm khá ổn
định nên ít bị ảnh hưởng; Ngành dệt tăng 2,93%, đây là ngành chịu ảnh hưởng
nặng của dịch Covid 19, tuy nhiên qua tháng 9 tình hình sản xuất kinh doanh của
ngành này đã khá hơn do có hợp đồng trở lại; Ngành sản xuất trang phục tăng
3,22% do một số doanh nghiệp đã cho công nhân đi làm lại, ký được hợp đồng mới;
Ngành sản xuất da và các sản phẩm có liên quan tăng 8,92% ngành này vẫn giữ
được tăng trưởng khá bởi các doanh nghiệp có hợp đồng sản xuất từ trước, một số
nước EU nhập hàng trở lại sau thời kỳ dịch Covid bùng phát như: Công ty giày da Changshin, Pousung, Taekwang Vina,
Dona Standar có mức tăng 5-10% so cùng kỳ; Ngành sản xuất thiết bị điện tử và
sản phẩm quang học giảm 1,96%. Đây là ngành chịu sự ảnh hưởng nặng nhất của
dịch bệnh covid – 19, nhiều hợp đồng sản xuất kinh doanh phải hủy bỏ, một số
doanh nghiệp khác sản xuất cầm chừng, nhiều doanh nghiệp sản xuất khó khăn do
thiếu nguồn cung nguyên liệu và nhu cầu tiêu dùng của khách hàng; sản xuất
gường, tủ, bàn ghế giảm 6,81%. Nguyên nhân giảm mạnh là vì thị trường xuất khẩu
sản phẩm ngành này gặp nhiều khó khăn do những nhà nhập khẩu chủ yếu là Mỹ và
các nước Eu, ngừng nhập hàng, sản phẩm sản xuất ra tiêu thụ chậm, tồn kho cao.
Ngành sản xuất phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước giảm
1,26% do lượng khí cấp bị sụt giảm nên nhà máy điện Nhơn Trạch phải vận hành
bằng nhiên liệu dầu DO, mặt khác do sự điều phối của tập đoàn điện lực Việt Nam
nên công suất phát điện giảm do đó chỉ số sản xuất của ngành này 9 tháng giảm
so cùng kỳ.
Nhìn chung
tình hình sản xuất công nghiệp trên địa bàn tỉnh 9 tháng đầu năm chịu ảnh hưởng
do dịch bệnh Covid – 19 nên tăng trưởng thấp; đến nay hoạt động sản xuất kinh
doanh có chuyển biến tích cực, song sản xuất công nghiệp vẫn còn gặp nhiều khó
khăn do dịch bệnh Covid – 19 ở nhiều quốc gia chưa được khống chế đã ảnh hưởng
đến tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trên địa bàn. Trong 9 tháng có
6/27 ngành có mức tăng trưởng âm, nhất là ngành sản xuất đồ gỗ (-6,81%), tiếp
đến là sản xuất thiết bị điện (-2,34%), có 21/27 ngành có chỉ số tăng. Có 10/27
ngành có chỉ số tăng dưới 5%; 11/27 ngành có mức tăng trưởng từ 5% trở lên. Qua
đây cho thấy tình hình sản xuất kinh doanh ngành công nghiệp những tháng cuối
năm có dấu hiệu tích cực hơn.
- Chỉ số sản
phẩm công nghiệp ước tháng 9 năm
2020 tăng so với tháng cùng kỳ năm trước như: cà phê các loại 41,8 nghìn tấn,
tăng 9,75%; sợi các loại 120,9 nghìn tấn, tăng 6,62%; quần áo các loại 16.764,6
nghìn cái, tăng 12,77%; giầy dép các loại 32 triệu đôi, tăng 4,14%; thuốc lá
sợi 2.596 tấn, tăng 26,2%; vải các loại 61,6 triệu m2, tăng 20,04%;
Nước uống 13,8 triệu m3, tăng 10,32%; thức ăn gia súc, thủy sản
398,7 nghìn tấn, tăng 9,77%; điện sản xuất 1.136 triệu Kwh, tăng 11,26%; đá xây
dựng các loại 1.799,7 nghìn m3, tăng 7,33%; gường,tủ,bàn ghế 1.346,7
nghìn chiếc, tăng 1,9%. Thuốc bảo vệ thực vật 297,5 tấn, giảm 1,1%; bột ngọt
25,6 nghìn tấn, giảm 0,65%; bê tông trộn sẵn 215,8 nghìn m3, giảm
1,59%; sơn các loại 11 nghìn tấn, giảm 5,75%;
- Chỉ số sản phẩm quý III/2020 của một số sản phẩm tăng cao so với cùng
kỳ năm trước như:
Thuốc lá sợi (+16,7%); Quần áo các loại (+11,23%); nước uống (+10,7%); Vải các
loại (+12,71%); bột ngọt (+9,11%); thức ăn gia súc, gia cầm, thủy sản (+7,44%)…
- Chỉ số sản phẩm công nghiệp 9 tháng đầu năm 2020 các sản phẩm có chỉ số
tăng, giảm so cùng kỳ như: Cà phê các loại (+12,57%); Bột ngọt (+11,27%); Thuốc
lá sợi (+11,71%); Quần áo các loại (+6,8%); Sợi các loại (+2,52%); đá xây dựng
(+6,26%); nước uống (+6,62%); giầy dép các loại (+4,33%). Các sản phẩm giảm
như: bao bì các loại (-0,72%); máy giặt (-27,08%); gường, tủ, bàn ghế (-4,94%);
thuốc bảo vệ thực vật (-7,6%).v.v.
- Chỉ số
tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tháng 9/2020 tăng 1,01% so với tháng
8/2020 và tăng 7,56% so với cùng kỳ. Tính chung 9 tháng đầu năm tăng 7,42% so với cùng kỳ. Một số ngành có chỉ số tiêu thụ 9 tháng tăng, giảm so cùng kỳ như:
Ngành sản xuất thuốc lá (+29,29%); sản xuất da và các sản phẩm liên quan (+10,8%); Ngành chế biến thực phẩm (+13,36%); Dệt (+7,07%); sản xuất sản phẩm
cao su và plastic (+12,28%); sản xuất trang
phục (+4,68);sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại (+5,98%);sản xuất giấy và sản phẩm từ
giấy (+3,89%); sản xuất xe có động cơ
(-23,71%); sản xuất thiết bị điện
(-1,84%); sản xuất gường, tủ, bàn ghế (-5,49%)…
- Chỉ số tồn kho toàn ngành công nghiệp chế biến, chế
tạo tại thời điểm 31/9/2020 dự tính tăng 0,55% so với
tháng trước và giảm 24,15% so cùng kỳ. Một số ngành có chỉ số tồn kho tăng cao so cùng kỳ như: sản xuất
sản phẩm thuốc lá (+10,39%); sản xuất xe có động cơ (+5,62%); sản xuất kim loại
(+1,57%); sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác (+4,09%)…một số ngành
có chỉ số tồn kho giảm là: sản xuất máy móc thiết bị chưa được phân vào đâu (-31,86%);
sản xuất chế biến thực phẩm (-14,89%);sản xuất giấy và các sản phẩm từ giấy
(-53,12%); sản xuất thiết bị điện (-30,89%); sản xuất gường, tủ, bàn ghế
(-22,98%); Dệt (-27,1%)…
- Chỉ số sử dụng lao động: Tình hình sử dụng lao động trong các doanh nghiệp có sự biến động đáng kể do
ảnh hưởng của tình hình dịch bệnh Covid -19. Chỉ số lao động trong các doanh
nghiệp tháng 9 tăng 1,67% so với tháng 8 và giảm 0,09% so cùng kỳ năm 2019,
trong đó: doanh nghiệp nhà nước giảm 0,48% so tháng trước và giảm 8,64% so cùng
kỳ; doanh nghiệp ngoài nhà nước tương ứng tăng 1,21% và giảm 5,34%; doanh
nghiệp đầu tư nước ngoài tăng 1,75% và tăng 0,6% so cùng kỳ. Số lao động đang
làm việc trong các ngành khai khoáng tăng 0,77% so tháng trước và giảm 3,76% so
cùng kỳ; ngành chế biến, chế tạo tương ứng tăng 0,82% và giảm 4,17%; sản xuất
điện, khí đốt, nước nóng tăng 0,02% so tháng trước và giảm 2,29%; ngành cung
cấp nước, xử lý rác thải, nước thải tăng 0,08% so tháng trước và giảm 1,18% so
cùng kỳ.
Chỉ số sử dụng lao động 9 tháng
đầu năm của doanh nghiệp giảm 1,93% so cùng kỳ. Chia theo loại hình,doanh
nghiệp nhà nước tăng 0,51%; doanh nghiệp ngoài nhà nước giảm 1,58%; doanh
nghiệp đầu tư nước ngoài giảm 2,11%. Chia theo ngành kinh tế cấp I: ngành khai
khoáng tăng 21,28%; ngành chế biến, chế tạo giảm 1,82%; sản xuất điện, khí đốt,
nước nóng tăng 2,72%; ngành cung cấp nước, xử lý rác thải, nước thải giảm 1,14%
so cùng kỳ.
2. Hoạt động xây dựng trên địa bàn
Hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp ngành xây dựng
tỉnh Đồng Nai 9 tháng năm 2020 gặp nhiều khó khăn do ảnh hưởng của tình hình
dịch Covid-19 phát sinh từ đầu năm và tái phát trong thời gian gần đây, đến nay
dịch bệnh cơ bản đã được khống chế, kiểm soát. Bước sang quý III/2020 các chủ
đầu tư và các đơn vị xây lắp tập trung
đẩy mạnh tiến độ thi công, quan tâm nâng cao chất lượng công trình, an
toàn lao động nhằm đảm bảo tiến độ các dự án, công trình hoàn thành mục tiêu kế
hoạch. Tình hình hoạt động kinh doanh ngành xây dựng quý III, 9 tháng năm 2020
cụ thể như sau:
Dự ước giá trị sản xuất ngành xây dựng theo giá hiện hành trên địa
bàn tỉnh quý III/2020 đạt 12.180,2 tỷ đồng, tăng 15,38% so với quý II/2020 và
tăng 8,25% so cùng kỳ.Trong đó: Doanh nghiệp nhà nước đạt 38,76 tỷ đồng, tăng
4,68% so với quý II/2020 và tăng 11,9% so cùng kỳ; doanh nghiệp ngoài nhà nước
đạt 7.889,2 tỷ đồng, tăng 12,17% so với quý II/2020 và tăng 7,65% so cùng kỳ.
Hiện nay, nhiều doanh nghiệp ngoài nhà nước có năng lực, quy mô lớn có thể đảm
nhận các công trình, dự án với khối lượng thi công lớn, chủ động, linh hoạt đáp
ứng yêu cầu thực tế. Mặt khác, nhu cầu xây dựng các công trình phục vụ sản xuất
kinh doanh và hạ tầng cũng như nhà ở dân cư trên địa bàn tiếp tục tăng. Vì vậy
giá trị sản xuất ngành xây dựng của khu vực này có mức tăng trưởng khá so cùng
kỳ; doanh nghiệp có vốn ĐTNN đạt 999,7 tỷ đồng, tăng 18,74% so với quý II/2020
và tăng 0,36% so cùng kỳ. Từ đầu năm 2020 do ảnh hưởng của dịch bệnh COVID-19,
hoạt động của một số doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có sự giảm sút mạnh,
sang quý III/2020 dịch bệnh được kiểm soát, các doanh nghiệp tập trung đẩy mạnh
tiến độ thi công các dự án công trình, nhiều công trình được khởi công mới, đảm
bảo kế hoạch của dự án. Vì vậy, giá trị sản xuất khu vực này có mức tăng trưởng
so với quý trước và so cùng kỳ; Loại hình khác đạt 3.252,5 tỷ đồng, tăng 23% so
quý II/2020, tăng 12,47% so cùng kỳ.
Giá trị sản xuất phân theo loại công trình: Công trình nhà ở đạt
4.195,9 tỷ đồng, tăng 23,45% so với quý II/2020 và tăng 12,18% so với cùng kỳ;
Công trình nhà không để ở đạt 3.933,14 tỷ đồng, tăng 21,5% so với quý II/2020
và tăng 10,27% so với cùng kỳ; Công trình kỹ thuật dân dụng đạt 2.233,93 tỷ
đồng, tăng 4,47% so với quý II/2020 và tăng 3,72% so với cùng kỳ; hoạt động xây
dựng chuyên dụng đạt 1.817,2 tỷ đồng, tăng 1,95% so với quý II/2020 và tăng
1,5% so với cùng kỳ.
Dự ước 9 tháng đầu năm 2020 giá trị sản xuất xây dựng (giá hiện
hành) đạt 32.484,5 tỷ đồng, tăng 8,75% so cùng kỳ. Trong đó: Doanh nghiệp nhà
nước đạt 112,3 tỷ đồng, tăng 5,32%; doanh nghiệp ngoài nhà nước đạt 21.407,5 tỷ
đồng, tăng 7,94% ; doanh nghiệp có vốn ĐTNN đạt 2.627,5 tỷ đồng, tăng 5,93%,
đây là khu vực đoanh nghiệp có nguồn vốn lớn, máy móc thiết bị hiện đại, đội
ngũ công nhân có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao, đáp ứng được các nhu cầu dự
án có quy mô lớn do vậy giá trị tăng khá cao; Loại hình khác đạt 8.337,1 tỷ
đồng, tăng 11,87%. Giá trị sản xuất phân theo loại công trình: Công trình nhà ở
đạt 10.666,64 tỷ đồng, tăng 11,31%; Công trình nhà không để ở đạt 10.072,88 tỷ
đồng, tăng 10,1%; Công trình kỹ thuật dân dụng đạt 6.381 tỷ đồng, tăng 9,87%;
hoạt động xây dựng chuyên dụng đạt 5.363,9 tỷ đồng, tăng 0,59% so cùng kỳ.
Một số đơn vị xây dựng có mức tăng so cùng kỳ như: Công Ty Trách
Nhiệm Hữu Hạn Best Sun Technology thực hiện 38 tỷ đồng, tăng 7,82%; Công Ty
Trách Nhiệm Hữu Hạn Cơ Khí Công Trình Wei Chien thực hiện 80 tỷ đồng, tăng
8,05%; Công Ty Trách Nhiệm Hữu Hạn Chig Feng thực hiện 57 tỷ đồng, tăng 7,83%;
Công Ty Trách Nhiệm Hữu Hạn Vinafilter Technology thực hiện 35 tỷ đồng, tăng
7,94%; Công Ty Trách Nhiệm Hữu Hạn Ngân Hùng Phúc thực hiện 19 tỷ đồng, tăng
9,12%; Công Ty Trách Nhiệm Hữu Hạn Vận Bảo Định thực hiện 22 tỷ đồng, tăng
8,65%; Công ty TNHH MTV XD Thương Mại Nguyễn Võ Phát thực hiện 21 tỷ đồng, tăng
9,27%; Công Ty Trách Nhiệm Hữu Hạn Tấn Đại Phát thực hiện 39 tỷ đồng, tăng
8,17%.v.v…
3. Sản xuất Nông - Lâm nghiệp và thủy sản
a. Cây hàng năm
Tình hình sản xuất cây hàng năm tương đối thuận lợi, cây trồng sinh
trưởng và phát triển tốt, các địa phương thực hiện tốt công tác phòng chống
dịch bệnh, chống hạn, chống ngập úng ở cây trồng, nên giảm thiểu được thiệt hại
của các loại cây trồng, tuy một số cây trồng bị ảnh hưởng nhưng ở mức độ thiệt
hại không đáng kể và không ảnh hưởng nhiều đến năng suất cây trồng, việc áp
dụng khoa học kỹ thuật trong sản xuất nông nghiệp ngày càng được nhân rộng trên
địa bàn, đã góp phần thúc đẩy phát triển sản xuất.
Tổng diện tích gieo trồng cây hàng năm tính
đến ngày 15/9/2020
đạt 144.609,38 ha, giảm 3.433,73 ha (-2,32%) so
cùng kỳ. Cụ thể diện tích gieo trồng một số cây chủ yếu như sau: cây lúa đạt
57.398 ha, giảm 1.355,17ha (-2,31%); cây bắp đạt 35.798 ha, giảm 313 ha,
(-0,18%); mía đạt 6.553,18 ha, giảm 934,82 ha (-12,48%) so với cùng kỳ. Nguyên nhân
diện tích cây hàng năm giảm là do diện tích vụ Đông xuân giảm mạnh vì lượng
nước trữ ở các hồ thủy lợi không đảm bảo được nguồn nước tưới tiêu cho các loại
cây trồng nên các hộ dân không chủ động được khâu làm đất, một số diện tích do
chuyển đổi cây trồng và giao đất cho các dự án. Bên cạnh đó cũng có một số cây
trồng tăng so với cùng kỳ như: rau các loại đạt 12.724,5 ha, tăng 442,5 ha
(+3,6%); đậu các loại đạt 3.298,5 ha, tăng 19,5 ha (+0,6%) so với cùng kỳ.
- Ước năng suất: Người dân đã chủ động được khâu làm đất, chăm
bón và phòng chống dịch bệnh tốt, cộng với việc áp dụng khoa học kỹ thuật cũng
như trong việc sử dụng phân bón nên năng suất cây trồng đạt khá. Cụ thể: năng
suất lúa đạt 58,71 tạ/ha (+2,28%); bắp đạt 75,02 tạ/ha (+1,8%); mía đạt 775,56 tạ/ha
(+2,89%).
- Ước sản lượng: Căn cứ trên diện tích gieo trồng và năng suất từng loại cây trồng,
dự ước sản lượng thu hoạch cây trồng 9 tháng đầu năm 2020 tăng, giảm so cùng kỳ
như sau: Sản lượng lúa đạt 312.319,18 tấn, giảm 2.791,1 tấn (-1,29%); bắp đạt 188.152
tấn, giảm 1.574,09 tấn (-0,83%); rau các loại đạt 218.756 tấn, tăng 14.567,46 tấn
(+7,13%); đậu các loại đạt 3.805,71 tấn, tăng 26,61 tấn (+3,11%) so cùng kỳ.
b. Cây lâu năm
Tình hình sản xuất cây lâu năm trên địa bàn
diễn biến bình thường, giá tiêu thụ một số sản phẩm hàng nông sản giảm mạnh do
phát sinh dịch bệnh Covid-19 ít nhiều cũng phần nào ảnh hưởng đến tình hình sản
xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp. Một số cây trồng do ảnh hưởng sâu bệnh xuất hiện chủ yếu ở một số cây như: cây điều
xuất hiện bọ trĩ, thán thư, bọ xít muỗi đỏ; cây chôm chôm có bệnh phấn trắng
gây hại; cây sầu riêng có bệnh chảy mủ, nấm hồng; cây tiêu thì có các dịch hại
như tuyến trùng, rệp sáp luôn hiện diện; cây xoài bệnh sâu lông vàng, măng cụt
phát sinh sâu ăn bông, bệnh phấn trắng… gây bất lợi cho sản xuất, bên cạnh đó
giá một số loại nông sản giảm như: Điều, tiêu, cao su, cà phê, chôm chôm, xoài,
chuối… đã tác động lớn đến sản xuất nông
nghiệp trên địa bàn.
Tổng diện tích cây lâu năm
hiện có là 170.027,72 ha, giảm 1,66%, (-2.871,23 ha) so cùng kỳ. Trong đó diện
tích cây ăn quả đạt 63.841,99 ha, tăng 0,51% (+320,8 ha), cây công nghiệp lâu
năm là 106.185,73 ha, giảm 2,92% (-3.192,03 ha) so cùng kỳ; Diện tích cây công
nghiệp lâu năm giảm dần là do sản phẩm của nhóm cây này giá tiêu thụ giảm, hơn
nữa hiệu quả thấp như: giá tiêu, điều, cao su, cà phê làm tác động đến diện
tích gieo trồng, sản lượng và giá trị sản xuất, do đó một số hộ chuyển sang
trồng cây ăn quả có hiệu quả kinh tế cao hơn, nhất là các loại cây bưởi, sầu riêng,
mít vì giá tiêu thụ ổn định.
Dự ước sản lượng thu hoạch một số loại cây trồng chính
trong 9 tháng đầu năm 2020 như sau: xoài đạt
75.484,15 tấn, tăng 6,62%; chuối đạt 92.252,62 tấn, tăng 9,55%; thanh long đạt
9.639,9 tấn, tăng 2,73%; cam đạt 8.953,21 tấn, tăng 6,95%; bưởi đạt 45.863,39
tấn, tăng 10,91% so cùng kỳ. Sản lượng tăng là do hiện nay nhiều loại cây ăn
quả có giá trị kinh tế cao, nên hầu hết các hộ mạnh dạn đầu tư về giống, kỹ
thuật chăm sóc cũng như công tác phòng bệnh tốt, từ đó năng suất cây trồng cũng
đạt khá. Đối cây công nghiệp lâu năm, xu hướng sản lượng giảm hoặc mức tăng
thấp, một phần do diện tích giảm do chuyển đổi sang đất dự án, đất sản xuất phi
nông nghiệp, một phần giá bán giảm mạnh trong năm qua, do đó mà sản lượng thu
hoạch còn thấp, cụ thể điều đạt 41.800,86 tấn, tăng 0,11%, tiêu đạt 30.606,28
tấn, giảm 0,94%; cao su đạt 32.027,56 tấn, tăng 2,21% so cùng kỳ.
c. Chăn nuôi
Tình hình chăn nuôi 9
tháng cơ bản đã ổn định và tiếp tục phát triển, công tác tái đàn có chuyển biến
tích cực. Ngành chăn nuôi triển khai các giải pháp an toàn sinh học, phòng
chống dịch bệnh và góp phần tài đàn có hiệu quả trong thời gian tới; Công tác
kiểm dịch và kiểm soát giết mổ, phúc kiểm động vật được kiểm tra chặt chẽ tại
các chốt, các cơ sở giết mổ; Rà soát công tác tiêm phòng đàn gia súc, gia cầm
tại địa phương, các đầu mối lưu thông trên địa bàn. Do đó tình hình dịch bệnh
có phát sinh nhưng chỉ ở thể nhẹ, không phát sinh thành dịch. Số lượng gia súc, gia cầm trên địa bàn tỉnh
tại thời điểm tháng 9/2020 như sau:
|
Đơn vị
tính
|
Chính
thức cùng kỳ
|
Thực
hiện kỳ báo cáo
|
So sánh
cùng kỳ (%)
|
I. Gia súc
|
Con
|
2.069.842
|
2.264.485
|
109,40
|
1. Trâu
|
Con
|
3.639
|
3.717
|
102,14
|
2. Bò
|
Con
|
84.823
|
86.652
|
102,16
|
Tr. đó: Bò sữa
|
Con
|
536
|
547
|
102,05
|
3. Heo (Không tính heo con chưa
tách mẹ)
|
Con
|
1.981.380
|
2.174.116
|
109,73
|
II. Gia cầm
|
1000 con
|
27.673,52
|
28.970,41
|
104,69
|
Trong
đó: Gà
|
1000 con
|
25.642,26
|
26.895,34
|
104,89
|
- Số lượng đàn: Tổng đàn gia súc hiện có là 2.264.485 con, tăng
194.643 con (+9,4%) so cùng kỳ. Trong đó trâu đạt 3.717 con, tăng 78 con (+
2,14%); bò đạt 86.652 con, tăng 1.829 con (+ 2,16%); heo đạt 2.174.116 con (không tính heo con chưa tách mẹ), tăng
9,73% tương đương tăng 192.736 con. Nguyên nhân tổng đàn heo hiện nay tăng là
hầu hết các đơn vị chăn nuôi có qui mô lớn có đủ điều kiện an toàn đảm bảo công
tác tái đàn, đảm bảo con giống cho các hộ có nhu cầu mua đặc biệt Công ty Chăn
nuôi CP Việt Nam, Công ty JapFa Việt Nam, Công ty Cj ViNa AgriBD, thuê lại các
chuồng trại để trống trước đây để tiếp tục mở rộng qui mô chăn nuôi. Nhằm
khuyến khích tăng đàn, Lãnh đạo tỉnh cũng đã chỉ đạo các nguồn hỗ trợ từ ngân
hàng với lãi suất ưu đãi cho người chăn nuôi tái đầu tư, tháo gỡ khó khăn về
quỹ đất chăn nuôi, xây dựng các chuỗi sản phẩm chăn nuôi an toàn... góp phần đảm
bảo sự tăng trưởng của toàn ngành nông nghiệp.
Tổng đàn gia cầm hiện
có là 28.970,41 ngàn con, tăng 4,69% so cùng kỳ. Trong đó gà đạt 26.895,34 ngàn
con, tăng 1.253,08 ngàn con (+4,89%) so cùng kỳ, nguyên nhân đàn gà tăng mạnh
là do thị trường tiêu thụ ổn định, dịch bệnh không phát sinh, nên các trang
trại đã chủ động tăng đàn. Hơn nữa, khoảng 80% tổng đàn gà tại Đồng Nai được
nuôi theo hình thức trại tập trung, áp dụng các quy trình an toàn dịch bệnh nên
đảm bảo chất lượng sinh trưởng vật nuôi. Hiện nay, một số trang trại nuôi gà
thịt đã kết nối được các doanh nghiệp tiêu thụ, tạo thành chuỗi khép kín từ
trang trại đến bàn ăn, góp phần thúc đẩy hoạt động chăn nuôi phát triển.
- Sản lượng sản phẩm: Dự ước sản lượng sản phẩm chăn nuôi gia súc, gia cầm
toàn tỉnh trong tháng 9/2020 tăng, giảm so cùng kỳ như sau: Sản lượng thịt trâu
dự ước 16,15 tấn, giảm 4,27%; thịt bò dự ước 276,57 tấn, giảm 4,55%; thịt
heo 43.194,21 tấn, giảm 1,39%; thịt gia cầm 13.764,3 tấn,
tăng 2,72%; sản lượng trứng gia cầm đạt 100.370,13 ngàn quả, tăng 0,08% so cùng kỳ.
Lũy kế 9 tháng sản lượng thịt trâu ước đạt
170,47 tấn, tăng 2,72%; thịt bò 3.145,84 tấn, tăng 3,23%; thịt heo 322.944,88
tấn, tăng 1,21%; thịt gia cầm đạt 126.280,31 tấn, tăng 5,41%; sản lượng trứng
gia cầm đạt 927.129,1 ngàn quả, tăng 5,31% so với cùng kỳ.
3.1. Lâm nghiệp
- Công tác trồng
và chăm sóc, nuôi dưỡng rừng: Trong tháng 9 lượng mưa
tương đối nhiều nên các hộ nhận khoán rừng, các đơn vị lâm nghiệp tiếp tục
xuống giống trồng rừng trên phần diện tích đất trống. Dự uớc diện tích rừng
trồng mới tháng 9 đạt 518 ha, tăng 1,17%. Lũy kế 9 tháng đạt 3.792,97 ha, tăng 1,48% so cùng kỳ, số cây lâm
nghiệp trồng phân tán ước đạt 8,25 ngàn cây, tăng 0,86%; lũy kế 9 tháng ước đạt
54,95 ngàn cây, giảm 0,11% so cùng kỳ.
- Khai thác gỗ và
lâm sản: Các đơn vị lâm nghiệp tiếp tục
khai thác rừng theo phương án thiết kế khai thác đảm bảo duy trì và phát triển
vốn rừng. Sản lượng gỗ khai thác trong tháng 9/2020 dự ước đạt 23.951 m3,
giảm 0,79%; lũy kế 9 tháng đạt 209.936 m3, tăng 5,85% so cùng kỳ.
Sản lượng củi khai thác dự ước tháng 9 đạt 252,45 ste, tăng 0,8%; lũy kế 9
tháng đạt 2.070,5 ste, tăng 1,45% so cùng kỳ.
3.2. Thủy sản
Tình hình sản xuất thủy sản trong tháng trên địa bàn tỉnh vẫn duy
trì ở mức ổn định, hoạt động nuôi trồng thủy sản luôn được người dân quan tâm,
từng bước được cải thiện về phương thức nuôi trồng, công tác phòng chống dịch
bệnh tốt, nhất là kiểm soát được nguồn thức ăn, con giống. Các hộ nuôi trồng
thủy sản chủ động cải thiện đầu tư ao, hồ, con giống vật nuôi, thay đổi cách
nuôi nhằm giảm chi phí, nâng cao hiệu quả kinh tế đặc biệt là các loại thủy sản
có giá bán ổn định và thị trường tiêu thụ tốt như tôm sú, cá chép, cá mè...
Dự ước tổng sản lượng thủy sản tháng 9/2020 đạt 5.338,9 tấn, tăng
0,51% so với cùng kỳ. Lũy kế 9 tháng sản lượng thủy sản đạt 49.507,6 tấn, tăng 4% so với cùng kỳ.
Trong đó sản lượng cá đạt 43.357,68 tấn, tăng 4,82%; tôm đạt 5.147,56 tấn, tăng
1,82%; thuỷ sản khác đạt 1.002,36 tấn, tăng 0,71% so với cùng kỳ. Sản lượng
thuỷ sản tăng cao là do thị trường tiêu thụ xã hội khá ổn định, tâm lý người
tiêu dùng hiện nay sử dụng thực phẩm thủy sản khá phổ biến, mặt khác việc nuôi
trồng thủy sản từng bước được người dân chuyển hướng nuôi theo quy trình an
toàn, xây dựng thương hiệu bằng uy tín chất lượng VietGAP, hình thức nuôi trồng thủy sản trên diện tích mặt nước
theo hướng chuyển mạnh từ phương thức nuôi quản
canh, quản canh cải tiến sang nuôi thâm canh, bán thâm canh đối với một số loại
thủy sản có chất lượng và giá bán ổn định trên thị trường.
Sản lượng khai thác trong tháng 9/2020 ước đạt 333,59 tấn, tăng
3,17%; luỹ kế 9 tháng đạt 5.464,87 tấn, giảm 4,89% so với cùng kỳ. Trong đó: cá
đạt 4.763,4 tấn, giảm 5,58%; tôm đạt 344,87 tấn, tăng 0,05%; thủy sản khác đạt
356,59 tấn, tăng 0,1% so với cùng kỳ. Nguyên nhân sản lượng khai thác 9 tháng
đầu năm giảm là do việc đánh bắt thủy sản tự nhiên cạn kiệt dần, thu nhập không
ổn định, một số hộ dân sinh sống bằng nghề khai thác đánh bắt thủy sản dọc Sông
Đồng Nai, sông La Ngà đã chuyển đổi ngành nghề khác để đảm bảo cuộc sống.
Sản lượng nuôi trồng trong tháng 9 ước đạt
5.005,31 tấn, tăng 0,34%; luỹ kế 9 tháng đạt 44.042,73 tấn, tăng 5,22% so với
cùng kỳ. Trong đó: cá đạt 38.594,28 tấn, tăng 5,72%; tôm đạt 4.802,69 tấn, tăng
1,95%; thủy sản khác đạt 645,76 tấn, tăng 1,06% so với cùng kỳ. Sản lượng thủy sản nuôi trồng 9 tháng tăng khá so với cùng kỳ do người dân đã quan tâm chú trọng đầu tư về khoa
học kỹ thuật trong việc nuôi trồng, chăm sóc con giống, tăng cường phòng chống
dịch nhằm hạn chế dịch bệnh phát sinh, đồng thời phát hiện và xử lý kịp thời khi phát sinh dịch khống chế kịp thời, tận dụng các nguồn nước phù hợp với các loại
thủy sản, mở rộng diện tích ao hồ, bể bồn và lồng bè để tăng sản lượng
nuôi trồng.
4. Thương mại, giá cả, vận tải và du lịch
Tháng chín các hoạt động kinh doanh thương mại dịch vụ trở lại bình thường do tình hình dịch bệnh
trên địa bàn tỉnh được kiểm soát tốt. Tuy nhiên ngành dịch vụ du lịch, vui chơi, giải trí và dịch vụ lưu trú, ăn
uống do ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19 trong thời gian dài đã làm cho doanh thu dịch vụ 9 tháng năm 2020 giảm mạnh so với cùng
kỳ; Hoạt động kinh doanh vận tải hành khách, hàng hóa giảm nhiều do
học sinh các cấp nghỉ học kéo dài, người dân ít đi lại …. Tình hình thương mại, vận tải, dịch vụ lưu
trú, ăn uống và các ngành dịch vụ khác tháng 9,
quý III và 9 tháng đầu năm 2020 như sau:
a. Thương mại
Tổng mức bán lẻ hàng hoá và dịch vụ tháng 9 ước đạt 15.253,42 tỷ đồng, tăng 1,8% so tháng
trước. Trong đó: Thương nghiệp đạt 11.898 tỷ đồng, tăng 1,57%; Khách sạn, nhà
hàng đạt 1.310,55 tỷ đồng, tăng 2,36%; Du lịch lữ hành đạt 3 tỷ đồng, tăng
1,76%; Dịch vụ đạt 2.041,85 tỷ đồng, tăng 2,8% so tháng trước. Nguyên nhân là
do tháng 9 tình hình dịch covid trên địa bàn tỉnh đã được kiểm soát tốt, các
hoạt động kinh doanh thương mại, dịch vụ trở lại hoạt động bình thường. Bên
cạnh đó tháng 9 là tháng bắt đầu vào mùa tựu trường đón năm học mới và có ngày lễ như
ngày Quốc Khánh 2-9, tết Trung Thu là những ngày lễ lớn trong năm nên nhu cầu mua sắm các mặt hàng thực phẩm, may
mặc, vật phẩm, văn hóa, giáo dục… tăng đã góp phần đưa tổng mức bán lẻ hàng hóa
và dịch vụ tăng so với tháng trước. Mặt khác, thực hiện văn bản số
10685/UBND-KGVX ngày 7/9/2020 của Ủy Ban Nhân Dân tỉnh Đồng Nai về việc cho
phép hoạt động trở lại một số loại hình dịch vụ như: Vũ trường, Quán ba,
Karaoke…. trong điều kiện tiếp tục tăng cường thực hiện các biện pháp phòng,
chống dịch Covid-19 đã làm cho doanh thu trong tháng 9 của các ngành này tăng
so tháng trước.
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ quý III/2020
ước thực hiện đạt 45.965,34 tỷ đồng, tăng 4,63% so quý II/2020 và tăng 7,84% so
cùng kỳ.
Tổng mức bán lẻ hàng hóa quý III năm 2020, ước đạt 35.779,33 tỷ
đồng, tăng 1,25% so quý trước, tăng 12,04% so quý cùng kỳ. Bước sáng quý 3 tình
hình kinh tế đã có nhiều khởi sắc, mặc dù trong tháng 8 chịu ảnh hưởng của dịch
covid tái bùng phát trở lại nhưng đã được kiểm soát tốt, với phương châm vừa
phòng chống dịch vừa phát triển kinh tế. Mặt khác trong quý 3 có nhiều ngày lễ
lớn đã góp phần đưa tổng mức bán lẻ quý III tăng so quý trước và tăng so quý
cùng kỳ. Cụ thể như: Lương thực, thực
phẩm tăng 1,23% so quý trước, tăng 16,74% so quý cùng kỳ; may mặc tăng 2,21% so quý trước và tăng
5,98% so quý cùng kỳ; Vật phẩm văn hóa giáo dục tăng 3,19% so với quý trước, tăng 1,45% so với
quý cùng kỳ; Gỗ và vật liệu xây dựng tăng 0,48% so quý trước và tăng 10,16% so
với quý cùng kỳ; Xăng, dầu các loại tăng 3,08% so quý trước và tăng 8,94% so
quý cùng kỳ…
Doanh thu lưu trú, ăn uống, du lịch lữ hành và
dịch vụ tiêu dùng khác quý III/2020 ước 10.186 tỷ đồng, tăng 18,48% so
quý trước, giảm 4,71% so cùng kỳ là do dịch Covid-19 kéo dài, thời gian nghỉ giãn
cách xã hội nhiều, nhiều hoạt động dịch vụ đóng cửa kinh doanh dẫn đến ảnh
hưởng lớn đối với hoạt động dịch vụ này.
Dự ước 9 tháng năm 2020 tổng mức bán lẻ hàng
hoá và dịch vụ đạt 135.970,48 tỷ đồng, tăng 5,01% so cùng kỳ. Trong đó: Doanh thu bán lẻ ngành thương nghiệp ước đạt 106.985,3 tỷ
đồng, tăng 9,51% so cùng kỳ; ngành khách sạn
nhà hàng thực hiện 11.038,18 tỷ đồng, giảm 9,07%; ngành du lịch lữ hành thực
hiện 32,84 tỷ đồng, giảm 56,3%; ngành dịch vụ thực hiện 17.914,16 tỷ đồng, giảm
8,46%.
Tổng mức bán lẻ hàng hoá và dịch vụ 9 tháng năm 2020 chia theo ngành
hoạt động:
- Doanh thu bán lẻ hàng hóa 9 tháng đạt 106.985,3 tỷ đồng, tăng
9,51% so cùng kỳ. Do ảnh hưởng của dịch covid-19 nên người dân mua sắm hàng hóa
giảm, mặt khác do một phần đời sống của người dân gặp khó khăn vì phải nghỉ
việc không lương, tạm ngưng kinh doanh nên chi tiêu tiết kiệm hơn. Tuy vậy một
số các mặt hàng thiết yếu sức mua trên thị trường vẫn tăng cao; Bên cạnh đó
việc mua hàng online ngày càng phổ biến và phát triển rộng rãi đã giúp người
dân tích cực mua hàng không cần phải đến nơi công cộng trong thời điểm dịch
bệnh tái bùng phát. Do đó dự ước tổng mức bán lẻ hàng hóa 9 tháng năm 2020 vẫn
tăng khá so cùng kỳ. Một số nhóm ngành chiếm tỷ trọng lớn và tăng khá so cùng
kỳ như: Nhóm lương thực, thực phẩm đạt 26.491,51 tỷ đồng (+12,32%); Nhóm hàng
may mặc đạt 4.292,68 tỷ đồng (+5,49%); Nhóm đồ dùng, dụng cụ, trang thiết bị
gia đình đạt 11.835,64 tỷ đồng (+4,88%); Nhóm gỗ và vật liệu xây dựng đạt
14.662,24 tỷ đồng (+8,4%); Nhóm Ô tô con đạt 6.873,51 tỷ đồng (+13,2%); Nhóm
phương tiện đi lại đạt 10.834,21 tỷ đồng (+11,58%); Nhóm Xăng dầu các loại đạt
13.633,74 tỷ đồng (+6,83%);
- Doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống 9 tháng đạt 11.038,18 tỷ đồng,
giảm 9,07% so cùng kỳ. Do ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19, nhiều đơn vị kinh doanh ngành dịch vụ lưu trú, ăn uống, du lịch lữ
hành đã phải tạm ngưng hoạt động đã làm cho doanh thu của các đơn vị kinh
doanh lưu trú,
ăn uống, du lịch lữ hành giảm. Trong đó:
+ Doanh thu dịch vụ lưu trú ước đạt 165,07 tỷ đồng, giảm 32,19%;
Lượt khách phục vụ đạt 1.639.558 lượt khách, so cùng kỳ năm trước giảm 34,64%;
Ngày khách phục vụ đạt 1.080.049 ngày, so cùng kỳ giảm 43,12%.
+ Dịch vụ ăn uống 9 tháng ước đạt
10.873,1 tỷ đồng, giảm 8,59%.
- Dịch vụ lữ hành và hoạt động hỗ trợ du lịch ước đạt 32,84 tỷ
đồng, giảm 56,3% so với cùng kỳ; Lượt khách du lịch theo tour 44.505 lượt, so
với cùng kỳ năm trước giảm 64,49%; Ngày khách du lịch theo tour 100.836 ngày,
so với cùng kỳ giảm 62,83%.
- Doanh thu hoạt động dịch vụ khác: dự ước 9
tháng đạt 17.914,16 tỷ đồng, giảm 8,46% so cùng kỳ. Nguyên nhân là do
ảnh hưởng của dịch Covid 19 nhiều doanh nghiệp và cơ sở kinh doanh dịch vụ làm đẹp, Spa, mát xa, hớt
tóc, phòng tập Gym, Yoga, tiệm nét, rạp chiếu phim, điểm du lịch, chợ đêm… tạm
ngưng hoạt động đã làm cho doanh thu hoạt động dịch vụ giảm nhiều so cùng kỳ. Cụ thể: Doanh thu dịch vụ kinh doanh
bất động sản giảm 15,07%; Doanh thu dịch vụ hành chính
và dịch vụ hỗ trợ giảm 1,16%; Dịch vụ giáo dục và đào tạo giảm 15,4%; Dịch vụ y tế và hoạt động trợ
giúp xã hội tăng 13,81%; Dịch vụ nghệ thuật, vui chơi giải trí giảm 13,09%; Doanh thu dich vụ
sữa chữa máy vi tính, đồ dùng cá nhân và gia đình giảm 14,14%; Doanh thu dich
vụ khác giảm 7,92% so cùng kỳ.
b. Giá cả thị trường
Chỉ số giá tiêu dùng tháng 9/2020 so với tháng
8/2020.
Tháng 9 tình hình
dịch bệnh Covid - 19 đã được khống chế, cho nên nhu cầu sinh hoạt và tiêu dùng
của người dân dần trở lại bình thường. Chỉ số giá tiêu dùng tháng 9/2020 so với
tháng 8/2020 tăng 0,24% (khu vực thành thị
tăng 0,28%; nông thôn tăng 0,21%). Trong 11 nhóm hàng có 5 nhóm chỉ số giá
tăng, 1 nhóm bằng và 5 nhóm giảm so tháng trước. Cụ thể ở một số ngành như sau:
Nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống giảm 0,46%
so tháng trước. Trong đó: Nhóm hàng lương
thực tăng 0,26% là do tình hình hình xuất khẩu gạo trong nước có nhiều thuận
lợi, các thương lái tập trung thu mua để xuất khẩu làm cho giá các mặt hàng
lương thực trong tháng tăng như gạo tẻ thường tăng 0,37%; gạo nếp tăng 0,65%...
Nhóm hàng thực phẩm giảm 0,73% là do trong tháng giá thịt heo giảm do nguồn
thịt heo cung cấp trong nước ổn định; Mặt khác, do tình hình dịch bệnh được khống
chế tốt nên mọi hoạt động của người dân cũng trở lại bình thường đã giúp cho
việc giao thương buôn bán có nhiểu thuận lợi. Trong tháng giá thịt heo giảm
bình quân 3,44%, thịt bò giảm 0,18%...
Các mặt hàng rau tươi, khô và chế biến giảm 1,94%. Do đang là mùa
thu hoạch của nhiều loại rau, củ nên sản lượng dồi dào, bên cạnh đó sản lượng
rau, củ, quả từ tỉnh Lâm Đồng được chuyển về nhiều làm cho giá các mặt hàng này
giảm như su hào giảm 3,29%; quả đổ tươi giảm 3,71%...
Nhóm may mặc, mũ nón, giày dép tăng 0,02% do nhu cầu mua sắm quần,
áo học sinh không sôi động như các năm trước, giá các mặt hàng này tương đối ổn
định.
Nhóm nhà ở, điện, nước, chất đốt và VLXD tăng 0,87% so tháng trước.
Giá nhóm này tăng chủ yếu tăng giá điện và dịch vụ điện sinh hoạt tăng 4,12%;
giá nước và dịch vụ nước sinh hoạt tăng 0,15%. Nguyên nhân là do nhu cầu sử
dụng điện, nước tăng làm cho giá điện, nước trong tháng tăng.
Nhóm Giáo dục: Chỉ số giá nhóm này so với tháng trước tăng 4,09%.
Nguyên nhân chính là do giá học phí của các trường dân lập có sự điều chỉnh
tăng làm cho dịch vụ giáo dục tăng 4,5%.
Chỉ số giá tiêu dùng tháng 9/2020 so với tháng
12/2019 tăng 0,75%. Có 7/11 nhóm hàng hoá có chỉ số tăng,
đó là: Hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 6,12%; đồ uống và thuốc lá tăng 1,21%; may mặc, mũ nón, giày dép tăng 0,15%; thiết bị
và đồ dùng gia đình tăng 0,22%; giáo dục tăng 4,45%; thuốc và dịch vụ y tế tăng
0,13%; hàng hoá và dịch vụ khác tăng 1,57%. Có 4/11 nhóm giảm: Nhà ở, điện nước,
chất đốt và VLXD giảm 0,97%; giao thông giảm 14,46%; bưu chính viễn thông giảm
0,27%; văn hóa, giải trí và du lịch giảm 0,85%.
Chỉ số giá tiêu
dùng quý III/2020: Tình hình giá cả hàng hóa
tiêu dùng quý III/2020 so quý trước tăng 0,96%; so quý III/2019 tăng 3,13%,
trong đó: Nhóm mặt hàng có tốc độ tăng cao là Nhóm giao thông tăng 7,83% so quý
trước, tiếp đến là nhóm giáo dục tăng 1,5%, nhóm văn hóa, giải trí và du lịch
tăng 0,85%, thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,29%, nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn
uống tăng 0,11%. Có 2 nhóm giảm so quý trước là may mặc, mũ nón và giày dép giảm
0,06%; bưu chính viễn thông giảm 0,09%; các nhóm còn lại có tốc độ tăng nhưng
không nhiều.
Chỉ số giá tiêu dùng bình quân 9 tháng so cùng kỳ tăng 3,72%. Trong đó: Nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống (+11,02%); đồ uống và thuốc
là (+1,34%); thuốc và dịch vụ y tế (+1,82%); giáo dục (+4,86%); may mặc, mũ
nón, giày dép (+1,24%); nhà ở, điện, nước, chất đốt và VLXD (+1,59%); thiết bị
đồ dùng gia đình (+0,35%); hàng hóa và dịch vụ khác (+2,32%). Có 3 nhóm giảm là
giao thông (-11,67%); bưu chính viễn thông (-0,16%); văn hóa, giải trí và du lịch
(-0,28%.
Giá vàng: Trong tháng giá vàng bình quân tăng 2,54% so tháng trước; so với
cùng tháng năm trước tăng 29,22%; so tháng 12 năm trước tăng 31,97%; quý III tăng 11,01% so quý trước và so bình quân cùng kỳ tăng 26,12%.
Giá Đô la Mỹ: Chỉ số giá Đô la Mỹ tháng này tăng 0,1% so tháng trước; so với
cùng tháng năm trước tăng 0,92%; so tháng 12 năm trước tăng 0,98%; quý III giảm 0,5% so quý trước và so bình quân cùng kỳ tăng 0,65%.
c. Xuất, nhập khẩu hàng hóa
Hoạt động kim ngạch
xuất, nhập khẩu 9 tháng năm 2020 do ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19
đã làm cho các doanh nghiệp xuất, nhập khẩu mặt hàng nông sản, nguyên phụ liệu
dệt, may, da, giày của thị trường Trung Quốc, Châu Âu giảm mạnh. Mặt khác thị
trường xuất khẩu ở các nước trên thế giới giảm mạnh, nhất là các thị trường
truyền thống như Mỹ và EU đã ảnh hưởng đến kim ngạch xuất khẩu so cùng kỳ, cụ
thể:
- Kim ngạch xuất
khẩu 9 tháng năm 2020 ước đạt
13.484,34 triệu USD, giảm 5,55% so cùng kỳ, trong đó: Kinh tế nhà nước đạt
365,07 triệu USD, giảm 7,98%; kinh tế ngoài nhà nước đạt 2.750,96 triệu USD,
giảm 6,77%; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đạt 10.368,31 triệu USD, giảm
5,13% so cùng kỳ.
Một số ngành hàng xuất khẩu 9 tháng năm 2020
tăng, giảm so cùng kỳ như sau: Hạt điều ước đạt
206,57 triệu USD (-12,87%); Cà phê ước đạt 350,82 triệu USD (+16,27%); Hạt tiêu
ước đạt 28,42 triệu USD (-2,38%); Cao su ước đạt 43,82 triệu USD (-6,23%); Sản
phẩm gỗ đạt 1.155,22 triệu USD (+7,1%); Hàng dệt may đạt 1.244,69 triệu USD
(-16,94%); Giày dép các loại ước đạt 3.012,64 triệu USD (-2,96%); Máy vi tính,
sản phẩm điện tử đạt 578,29 triệu USD (+29,6%); Máy móc thiết bị ước đạt
1.298,88 triệu USD (+4,33%); Phương tiện vận tải và phụ tùng đạt 642,34 triệu
USD (-8,36%); Xơ, sợi dệt đạt 784,15 triệu USD (-27,3%); Sản phẩm từ chất dẻo
ước đạt 253,5 triệu USD (-5,36%); Sản phẩm sắt thép đạt 394,35 triệu USD (-25,53%)
so cùng kỳ.
Thị trường xuất khẩu tập trung chủ yếu ở các thị trường chủ lực
truyền thống 9 tháng/2020 như: Hoa Kỳ ước đạt 3.866,07 triệu USD, giảm 2,33% so
cùng kỳ và chiếm 30,7% kim ngạch xuất khẩu; Nhật Bản ước đạt 1.460,1 triệu USD,
giảm 4,71% và chiếm 11,6%; Trung Quốc ước đạt 1.605,8 triệu USD, tăng 3,79% và
chiếm 12,8%; Hàn Quốc ước đạt 773,19 triệu USD, tăng 1,4% và chiếm 6,2%; Đức
ước đạt 393,92 triệu USD, tăng 3,26%, chiếm 3,1%; Đài Loan ước đạt 256,1 triệu
USD, tăng 7,34%, chiếm 2%… Các thị trường khác cũng có kim ngạch xuất khẩu khá
cao như Hong Kong, Bỉ, Úc, Thái Lan.
- Kim ngạch nhập
khẩu 9 tháng/2020 ước đạt 10.405,74
triệu USD, giảm 11,11% so cùng kỳ. Nguyên nhân kim ngạch nhập khẩu 9 tháng đầu
năm 2020 giảm là do ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19
đã làm ảnh hưởng đến tình hình nhập khẩu
của các doanh nghiệp, nhất là đối với các mặt hàng xơ, sợi dệt các loại; nguyên
phụ liệu dệt, may, da, giày nhập khẩu chủ yếu từ thị trường Trung Quốc. Cụ thể,
một số mặt hàng biến động so cùng kỳ như sau: Thức ăn gia súc và nguyên liệu
ước đạt 744,82 triệu USD (+41,62%); Chất dẻo nguyên liệu ước đạt 863,05 triệu
USD (-20,62%); Vải các loại 548,77 triệu USD (-20,95%); Nguyên phụ liệu dệt,
may ước đạt 538,1 triệu USD (-12,3%); Bông ước đạt 438,52 triệu USD (-13,87%);
Sắt thép các loại ước đạt 655,61 triệu USD (-26,63%); Máy móc thiết bị ước đạt
1.145,21 triệu USD (-14,14%)…
Thị trường nhập khẩu chủ lực trong 9
tháng/2020 là: Trung Quốc ước đạt 2.295,97 triệu USD, chiếm 23% và giảm 4,6%;
Hàn Quốc ước đạt 1.482,16 triệu USD, chiếm 14,9%, giảm 20,16%; Đài Loan ước đạt
1.083,79 triệu USD, chiếm 10,9%, giảm 16,01%; Nhật Bản ước đạt 867,84 triệu
USD, chiếm 8,7%, giảm 22,56%; Hoa kỳ ước đạt 859,2 triệu USD, chiếm 8,6%, giảm
22,27% so cùng kỳ. Các thị trường khác có kim ngạch nhập khẩu khá cao như: Thái
Lan, Brazil, Indonesia… chiếm tỷ trọng từ 1,9% đến 6,1% tổng kim ngạch nhập
khẩu.
d. Giao thông vận tải
Vận tải, kho bãi ước tháng 09/2020: Doanh thu vận tải
kho bãi ước
đạt 1.454,7 tỷ đồng,
tăng 1,63% so tháng trước, tăng 1,86% so cùng kỳ năm trước. Tình hình vận
chuyển hành khách, hàng hóa tháng 9/2020 và các dịch vụ vận tải, bưu chính
chuyển phát tăng so với tháng trước là
do tình hình dịch bệnh trên địa bàn tỉnh, cũng như trong nước đã được khống
chế, mọi hoạt động thông thương, dịch vụ trở lại bình thường kể từ 00h ngày
08/9/2020. Cụ thể:
+ Doanh thu vận tải hành khách ước đạt 190,2 tỷ đồng,
tăng 2,77% so tháng trước và giảm 2,19% so cùng kỳ năm trước; khối lượng vận
chuyển ước đạt 5.826 nghìn HK, tăng 2,06% so tháng trước và giảm 1,67% so cùng kỳ; khối lượng luân
chuyển ước đạt 399.273 nghìn HK.km, tăng 2,09% so tháng trước và giảm 1,31% so cùng kỳ. Nguyên nhân là
do tháng 9 học sinh và sinh viên bắt đầu vào năm học mới nên dịch vụ đưa rước
học sinh, sinh viên tăng. Bên cạnh đó, tháng 9/2020 lại trùng với tháng 8 âm
lịch là tháng có ngày 15/8 ngày tết đoàn viên sum họp nên các hoạt động vui
chơi, giải trí tăng lên, làm cho lượng hành khách đi lại cũng tăng lên. Vì vậy
tháng 9 ngành vận chuyển hành khách tăng cả về doanh thu và sản lượng so tháng
trước. Tuy nhiên, do ảnh hưởng của dịch Covid 19 nên so với tháng cùng kỳ vẫn
giảm cả về doanh thu và sản lượng.
+ Doanh thu vận tải hàng hóa ước đạt 838,4 tỷ
đồng, tăng 1,98% so tháng trước và tăng 1,06% so cùng kỳ năm trước; khối lượng
vận chuyển ước đạt 3.993 nghìn tấn tăng 1,65% so tháng trước và tăng 1,75% so
cùng kỳ; khối lượng luân chuyển ước đạt 370.244 nghìntấn.km tăng 1,73% so tháng
trước và tăng 1,02% so cùng kỳ. Nguyên nhân là do tình hình hoạt động sản xuất
kinh doanh của các đơn vị sản xuất cũng như xuất nhập khẩu đã ổn định trở lại
nên nhu cầu vận chuyển hàng hóa tăng hơn so với tháng trước.
+ Doanh thu kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận
tải ước đạt 426,1 tỷ đồng, tăng 0,46% so tháng trước và tăng 5,45% so cùng kỳ năm trước. Tình hình hoạt
động sản xuất kinh doanh của các Doanh nghiệp trên địa bàn những tháng gần đây
đã dần đi vào ổn định, các hợp đồng xuất nhập khẩu tăng hơn nên nhu cầu bốc xếp
hàng hóa, cũng như nhu cầu làm các dịch vụ logistic, kê khai hải quan cao hơn
tháng trước dẫn đến doanh thu của nhóm kho bãi và các dịch vụ vận tải ước tháng
9/2020 tăng hơn so với tháng 8.
Hoạt động vận tải, kho bãi quý III/2020
Doanh
thu vận tải hành khách
quý 3 năm 2020, ước đạt 551,7 tỷ đồng, tăng 10,06% so với quý
2/2020 và giảm 5,17% so cùng kỳ năm
trước. Khối lượng vận chuyển ước đạt 16.985,5 nghìn HK, tăng 14,31% so quý
trước và giảm 4,31% so cùng kỳ; khối
lượng luân chuyển ước đạt 887.645,8 nghìnHK.km, tăng 23,37% so quý trước và
giảm 1,72% so cùng kỳ.
Doanh
thu vận tải hàng hóa
quý 3 năm 2020, ước đạt 2.435,56 tỷ đồng, tăng 3,73% so
quý trước và giảm 2,08% so cùng kỳ năm
trước. Khối lượng vận chuyển ước đạt 13.769,3 nghìn HK, tăng 5,43% so quý trước
và giảm 0,98% so cùng kỳ; khối lượng luân chuyển ước đạt 1.084.643,5 nghìnHK.km,
tăng 4,76% so quý trước và giảm 1,58% so cùng kỳ.
Doanh thu kho bãi và các hoạt động kho
bãi quý 3 năm 2020 ước đạt 1.300,6 tỷ đồng, tăng 2,59% so quý trước và tăng
0,98% so cùng kỳ.
Hoạt động vận tải, kho bãi 9 tháng đầu năm 2020: Dư ước đạt 12.588,69 tỷ đồng, giảm 4,07% so
cùng kỳ. Do ảnh hưởng của dịch Covid-19 nên một số đơn vị của ngành vận tải
hành khách và hàng hóa tạm ngưng hoạt động. Làm cho doanh thu và sản lượng của
9 tháng năm 2020 giảm so với cùng kỳ.
Vận tải hành khách dự tính đạt 1.548,9 tỷ
đồng, giảm 10,72%; Sản lượng vận chuyển hành khách dự tính đạt 45.179 nghìn HK,
giảm 11,66% và luân chuyển dự tính đạt 2.279.742 nghìn HK.Km, giảm 7,14% so với
cùng kỳ năm trước. Trong
đó: Đường bộ đạt 44.334 ngàn hành khách vận chuyển, giảm 11,71% và 2.279.249 ngàn hành khách.km luân
chuyển, giảm 7,14%; đường sông đạt 845,4 ngàn hành khách vận chuyển, giảm 9,28%
và 492,5 ngàn hành khách.km luân chuyển, giảm 10,63%.
Vận tải hàng hoá dự tính đạt 7.108,9 tỷ đồng
giảm 2,88%; Khối lượng vận chuyển hàng hóa dự tính đạt 42.070 nghìn.tấn, giảm
6,67%, luân chuyển hàng hóa đạt 3.227.564 nghìn tấn.km giảm 4,52% so cùng kỳ. Trong đó: Đường bộ đạt 40.970 ngàn tấn vận chuyển, giảm 6,75% và
3.040.393 ngàn tấn.km luân chuyển, giảm 4,61%; đường sông đạt 1.100 ngàn tấn
vận chuyển, giảm 3,47% và 187.171 ngàn tấn.km luân chuyển, giảm 3,09%.
Doanh thu kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận
tải 9 tháng/2020 ước đạt 3.930,9 tỷ đồng, giảm 3,38% so cùng kỳ.
e. Bưu chính viễn thông: Dự ước
doanh thu 9 tháng đạt 5.246,94 tỷ đồng, tăng 5,21% so cùng kỳ, trong đó: doanh
thu bưu chính đạt 843,19 tỷ đồng, tăng 14,35%; doanh thu viễn thông đạt
4.403,76 tỷ đồng, tăng 3,62%.
Số máy điện thoại phát triển 9 tháng là 651.726 thuê bao điện
thoại, tăng 3,18% so cùng kỳ. Trong đó ước đạt 1.606 thuê bao cố định, giảm
17,05%; 650.120 thuê bao di động, giảm 3,25%.
Số thuê bao Internet phát
triển mới 9 tháng là 77.890 thuê bao, tăng 7,79% so với cùng kỳ.
5. Đầu tư phát triển
Dự ước Vốn
đầu tư thực hiện trên địa bàn tỉnh Đồng Nai quý III/2020 thực hiện 28.846,4 tỷ
đồng, tăng 38,67% so với quý II/2020 và tăng 11,49% so quý III/2019. Dự ước 9
tháng đầu năm 2020 thực hiện 67.066,8 tỷ đồng, tăng 3,39% so cùng kỳ. Tình hình
thực hiện các nguồn vốn như sau:
- Vốn đầu
tư do địa phương quản lý:
Uớc quý III
năm 2020 thực hiện 2.191,5 tỷ đồng, tăng 2,2 lần so quý II/2020 và so quý
III/2019 bằng 97,76%. Do tình hình dịch bệnh Covid-19 diễn biến phức tạp ở 2
quý đầu năm, nên vốn đầu tư thực hiện 6 tháng đầu năm 2020 thấp. Bước sang các
tháng quý III/2020 tình hình dịch bệnh đã được kiểm soát nên tình hình vốn đầu
tư thực hiện đã từng bước phát triển mạnh ở các tháng cuối năm. Dự ước 9 tháng
đầu năm 2020 thực hiện 4.398,2 tỷ đồng, giảm 10,11% so cùng kỳ. Trong đó: Nguồn vốn ngân sách nhà nước:
Ước quý III năm 2020 thực hiện 2.120 tỷ đồng, tăng 130,93% so quý II/2020; bằng
97,59% so quý III/2019. Ước 9 tháng đầu năm 2020 thực hiện 4.022,8 tỷ đồng, giảm 14,09% so cùng kỳ năm 2019. Nguyên nhân giảm
là do công tác giải ngân và giải phóng mặt bằng còn chậm so kế hoạch. Dự kiến
trong quý III/2020 một số dự án trọng điểm trên địa bàn do Các Ban QLDA làm chủ
đầu tư có tiến độ thực hiện như sau: Dự án Nâng cấp đường ĐT 763 đoạn từ
Km0+000 đến Km29+500. Dự ước quý 3/2020 thực hiện 22 tỷ đồng. Dự kiến 9 tháng đầu
năm 2020 thực hiện 73,7 tỷ đồng; Dự án xây mới
cơ sở điều trị và cai nghiện ma túy: Ước quý 3/2020 thực hiện 19,3 tỷ đồng. Dự kiến 9 tháng đầu năm 2020 thực hiện 45,8 tỷ đồng; Dự án xây mới cầu
Thanh Sơn, huyện Định Quán: ước quý 3/2020 thực hiện 13 tỷ đồng. Dự kiến 9
tháng đầu năm 2020 thực hiện 13 tỷ đồng; Dự án đường 319B qua KCN Nhơn Trạch (
Đoạn còn lại): ước quý 3/2020 thực hiện 12,9 tỷ đồng. Dự kiến 9 tháng đầu năm
2020 thực hiện 25,2 tỷ đồng; Dự án tuyến đường giao thông kết nối cảng Phước
An đoạn từ đường 319 giao cắt đường cao tốc Bến Lức – Long Thành. ước quý
3/2020 thực hiện 9,4 tỷ đồng. Dự kiến 9 tháng đầu năm 2020
thực hiện 48,7 tỷ đồng; Dự án Kè gia cố bờ sông Đồng Nai đoạn từ khu dân
cư dọc sông Rạch Cát phường Thống Nhất đến nhà máy xử lý nước thải số 2 phường
Tam Hiệp thành phố Biên Hòa – đây là dự án có vốn đối ứng theo cam kết với JICA
khi triển khai dự án TNXLNT tp BH giai đoạn 1 từ vốn ODA. ước quý 3/2020 thực
hiện 8,1 tỷ đồng. Dự kiến 9 tháng đầu năm 2020 thực hiện 27,6 tỷ đồng…
- Nguồn vốn thuộc khu
vực Ngoài nhà nước.
Uớc quý III năm 2020 thực hiện 12.036 tỷ đồng, so quý II/2020 tăng 17,5%; so quý III/2019 tăng
5,14%. Dự ước 9 tháng đầu năm 2020 thực hiện 30.129,7 tỷ đồng, tăng 1,13% so
cùng kỳ.
Trong đó:
Nguồn
vốn đầu tư từ khối doanh nghiệp ngoài Nhà nước: Dự ước quý 3/2020 thực hiện
6.807,8 tỷ đồng, tăng 10,55% so quý trước; giảm 1,85% so cùng kỳ. Dự ước 9
tháng đầu năm 2020 thực hiện 17.649,6 tỷ đồng, giảm 3,8% so cùng kỳ năm 2019.
Đây là khu vực kinh tế bị ảnh hưởng lớn nhất của dịch bệnh Covid-19. Nhiều DN
ngừng hoạt động, giải thể, nhiều doanh nghiệp không có hợp đồng mới, sản phẩm
sản xuất tồn kho nhiều nên ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động đầu tư của khu vực
doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế này.
Nguồn vốn đầu tư từ các hộ dân cư: Quý
III/2020 thực hiện 5.228,2 tỷ đồng, tăng 27,97% so quý II/2020 và tăng 15,9% so
quý III/2019. Dự ước 9 tháng đầu năm 2020 thực hiện 12.480 tỷ đồng, tăng 9,05%
so cùng kỳ năm 2019. Tình hình vốn đầu tư thực hiện khu vực dân cư có sự phát
triển cao do nhu cầu xây dựng mới, sửa chữa nhà ở, đặc biệt các cơ sở sản xuất
kinh doanh cá thể đã đầu tư nhà xưởng, vốn, trang bị thêm tài sản...
- Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài:
Dự ước quý III/2020 vốn đầu tư thực hiện 12.267 tỷ đồng, tăng 30,73% so quý
II/2020 và tăng 3,94% so quý III/2019. Dự ước 9 tháng đầu năm 2020 thực hiện
29.914,4 tỷ đồng, tăng 2,15% so cùng kỳ năm 2019.
Đây là khu vực kinh tế có vốn đầu tư chiếm tỷ trọng lớn nhất trong
các thành phần kinh tế, chiếm khoảng 45% và có mức tăng trưởng nhanh và ổn
định. Tuy nhiên cũng như các thành phần kinh tế khác khu vực này do ảnh hưởng
của tình hình dịch bệnh Covid-19 nên tiến độ thực hiện đầu tư của nhiều dự án
buộc phải chậm so kế hoạch do thiếu vốn, nhân công, nguyên liệu, máy móc, thiết
bị… Vì vậy tình hình thực hiện vốn đầu tư 9 tháng đầu năm 2020 thực hiện chậm
so cùng kỳ 2019.
Dự kiến trong quý III/2020 một số công ty thực hiện vốn đầu tư thực
hiện lớn như sau: Công ty CP Vedan: 182 tỷ đồng; Công ty Ajinomoto: 150 tỷ
đồng; Công ty Kenda: 48,1 tỷ đồng; Công ty changshin: 63,5 tỷ đồng; Công ty
Center Power Tech: 32 tỷ đồng; Công ty Tôn Phương Nam: 47,2 tỷ đồng; Công ty
Tae Kwang: 32,9 tỷ đồng; Công ty Hitachi: 19,3 tỷ đồng; Công ty Pousung: 35 tỷ
đồng …
6. Thu hút đầu tư
- Tổng vốn đăng ký cấp mới và dự án tăng vốn Đầu tư trực tiếp của
nước ngoài (FDI) đến ngày 18/9/2020 đạt 896,95 triệu USD, bằng 65,6% so cùng
kỳ, đạt 89,7% so kế hoạch. Trong đó: Cấp mới 55 dự án với vốn đăng ký 245,63
triệu USD, bằng 33,7% so cùng kỳ; điều chỉnh vốn 86 dự án với vốn bổ sung
651,32 triệu USD, tăng 1,9% so cùng kỳ.
- Tổng vốn đầu tư trong nước đăng ký cấp giấy
chứng nhận đầu tư, chủ trương đầu tư và điều chỉnh tăng vốn đến ngày 19/9/2020
là 25.663,5 tỷ đồng, tăng 142,7% so cùng kỳ, đạt 128,3% so kế hoạch. Trong đó:
Cấp giấy chứng nhận đầu tư cho 93 dự án với số vốn là 21.600,3 tỷ đồng, tăng
119% so cùng kỳ; điều chỉnh tăng vốn 13 dự án với số vốn là 4.063,2 tỷ đồng,
gấp 5,7 lần so cùng kỳ.
- Tính từ đầu năm đến ngày 15/9/2020, tổng vốn
đăng ký thành lập mới doanh nghiệp và bổ sung tăng vốn là: 55.152,9
tỷ đồng, tăng 61% so với cùng kỳ năm 2019 (34.247,6 tỷ đồng), trong đó số đăng
ký thành lập mới là 2.783 doanh nghiệp với số vốn đăng ký
là 45.274 tỷ đồng, tăng 63,6% so cùng kỳ và 393 lượt doanh nghiệp đăng
ký tăng vốn với vốn đăng ký bổ sung là 9.878,9 tỷ đồng, tăng 50,4% so cùng
kỳ.
Lũy kế đến ngày 15/9/2020 thực hiện hỗ trợ, soạn thảo được 525 hồ
sơ đăng ký doanh nghiệp, thông báo sử dụng mẫu dấu và đăng tải trên hệ thống
thông tin đăng ký doanh nghiệp quốc gia cho các cá nhân, doanh nghiệp có đề
nghị.
- Về tình hình giải thể doanh nghiệp, tạm ngừng kinh doanh: Tính từ đầu năm đến ngày 15/9/2020 có 268 doanh nghiệp giải thể với số
vốn 2.912 tỷ đồng và 261 Chi nhánh, địa điểm kinh doanh và văn phòng đại diện
chấm dứt hoạt động 583 doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh. Các doanh nghiệp này
chủ yếu là doanh nghiệp nhỏ và vừa và thuộc khu vực kinh tế tư nhân. Lý do giải
thể và chấm dứt hoạt động và tạm ngừng kinh doanh chủ yếu là do kinh doanh
không hiệu quả.
7. Tài chính – Ngân hàng
a. Tài chính
Chín tháng năm 2020 Sở Tài chính đã thực hiện phối hợp ngành thuế
tiếp tục thực hiện rà soát các nguồn thu, tổ chức thực hiện kịp thời, có hiệu
quả các giải pháp miễn giảm, giãn thuế và các khoản thu ngân sách theo quy
định. Đồng thời tiếp tục tháo gỡ, giải quyết khó khăn, vướng mắc về cơ chế,
chính sách cho doanh nghiệp; cải thiện môi trường kinh doanh, tạo điều kiện
thuận lợi để các doanh nghiệp phát triển ổn định, vững chắc. Từ đó, thu hút đầu
tư, hỗ trợ doanh nghiệp đổi mới và khôi phục hoạt động sản xuất, kinh doanh
ngay sau khi đại dịch Covid-19 được khống chế, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế,
tạo cơ sở để tăng thu cho ngân sách.
Tổng thu ngân sách nhà nước từ đầu năm đến thời điểm 15/9/2020 ước
đạt 37.326 tỷ đồng, đạt 70% dự toán năm và bằng 98% so với cùng kỳ. Trong đó:
- Thu nội
địa là 27.333 tỷ đồng, đạt 77% so với dự toán năm và tăng 5% so với cùng kỳ.
- Thu lĩnh vực xuất nhập khẩu: 9.993 tỷ đồng, đạt 57% so dự toán
năm và bằng 82% so với cùng kỳ.
Thu lĩnh vực xuất nhập khẩu giảm do dịch Covid-19 tiếp tục diễn
biến phức tạp trên thế giới và trong nước, hầu hết các nước như Trung Quốc, Hàn
Quốc, Nhật Bản, Mỹ, EU,… các biện pháp giãn cách, cách ly, phong tỏa dẫn tới
các nhà máy có giao thương với doanh nghiệp tại Việt Nam đều ngừng hoạt động và
đóng cửa. Kim ngạch xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp trên địa bàn có nguồn
hàng hóa xuất nhập khẩu với các quốc gia và vùng lãnh thổ này đều giảm mạnh, do đó thu lĩnh vực xuất nhập khẩu giảm so
cùng kỳ, tuy nhiên đạt được kết quả như trên
cũng là dấu hiệu khả quan, trong bối cảnh dịch bệnh Covid-19 trên thế giới và
trong nước đang diễn biến phức tạp, là sự nỗ lực của các doanh nghiệp cố gắng
duy trì sản xuất, mở rộng thị trường xuất khẩu.
Dự ước tổng chi ngân sách địa phương từ đầu năm đến thời điểm 15/9/2020 ước đạt 13.907 tỷ đồng, đạt 59% so với dự toán và tăng 5% so với cùng
kỳ. Trong đó: Chi đầu tư phát triển: 5.100 tỷ đồng, đạt 65% so với dự toán và
tăng 11% so với cùng kỳ. Chi thường xuyên: 8.801 tỷ đồng, đạt 60% so với dự
toán và tăng 2% so với cùng kỳ.
b. Hoạt động ngân hàng
Ngân hàng Nhà nước chi nhánh tỉnh chỉ đạo có các giải pháp vừa tăng
cường áp dụng các biện pháp phòng, chống dịch hiệu quả và chỉ đạo các TCTD thực
hiện cân đối nguồn vốn để đáp ứng đầy đủ nhu cầu vốn phục vụ sản xuất kinh
doanh theo chỉ đạo của Chính phủ, nhằm hỗ trợ khách hàng, đẩy nhanh tiến độ xử
lý hồ sơ; hỗ trợ tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp và người dân … do đó công
tác thanh toán, đáp ứng kịp thời phục vụ sản xuất và lưu thông hàng hóa. Kết
quả hoạt động ngân hàng như sau:
Hoạt động huy
động vốn: Tổng nguồn vốn huy động của
các TCTD trên địa bàn ước đến 30/9/2020 đạt 226.000 tỷ đồng, tăng 13,64% so đầu
năm. Trong đó: Tiền gửi bằng đồng Việt Nam ước đạt 210.892 tỷ đồng, tăng 13,43%
so đầu năm; Tiền gửi bằng ngoại tệ ước đạt 13.529 tỷ đồng, tăng 14,87% so đầu
năm; Phân theo cơ cấu tiền gửi: Tiền gửi tiết kiệm ước đạt 121.679 tỷ đồng,
tăng 9,49% so với đầu năm; Tiền gửi thanh toán ước đạt 102.743 tỷ đồng, tăng
18,68% so đầu năm.
Mặt bằng lãi suất huy động bằng VND của TCTD có
xu hướng giảm. Hiện lãi suất huy động bằng VND phổ biến ở mức 0,1-
0,2%/năm đối với tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 1 tháng; 3,7 -
4,1%/năm đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 1 tháng đến dưới 6 tháng; 4,4- 6,4%/năm
đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 6 tháng đến dưới 12 tháng; kỳ hạn từ 12 tháng trở
lên ở mức 6,0 - 7,1%/năm. Lãi suất huy động USD của TCTD ở mức 0%/năm đối với
tiền gửi của cá nhân và tổ chức.
Hoạt động tín
dụng: Đến 30/9/2020 tổng dư nợ cấp tín dụng trên địa bàn ước đạt 223.064 tỷ đồng, tăng 4,91% so với đầu năm (trong đó nợ xấu ước chiếm 0,89% trên tổng dư nợ
cho vay). Dư nợ cấp tín dụng bao gồm. Dư nợ cấp tín dụng bao gồm: Dư nợ ngắn
hạn ước đạt 119.984 tỷ đồng, tăng 8,37% so đầu năm. Dư nợ trung, dài hạn ước
đạt 100.277 tỷ đồng, tăng 0,26% so đầu năm. Mặt bằng lãi suất cho vay bằng VND
của TCTD có xu hướng giảm. Lãi suất cho vay ngắn hạn tối đa bằng đồng VND đối
với một số ngành lĩnh vực ở mức 5,0%/năm. Lãi suất cho vay USD phổ biến ở mức
3,0-6,0%/năm; trong đó lãi suất cho vay ngắn hạn phổ biến ở mức 3,0-4,5%/năm,
lãi suất cho vay trung, dài hạn ở mức 4,2-6,0%/năm.
8. Một số tình hình xã hội
a. Văn hóa thông tin
Chín tháng năm 2020 có nhiều sự
kiện lớn về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội và đối ngoại trên địa bàn tỉnh.
Ngành Văn hóa - Thể thao và du lịch tập trung tuyên truyền các nhiệm vụ chính
trị như: Tập trung tuyên truyền cổ động trực quan tuyên truyền Đại hội Đảng các
cấp, Đại hội Đảng bộ tỉnh Đồng Nai lần thứ XI, tiến tới chào mừng Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng; Trang trí các kỳ họp Hội đồng nhân
dân tỉnh khóa IX; Tuyên truyền kỷ niệm 75 năm thành lập QĐNDVN và 30 năm
Ngày hội Quốc phòng toàn dân; Tuyên truyền kỷ niệm 75 năm Cách mạng Tháng
Tám và Quốc khánh 02-9; Tuyên truyền về công
tác phòng, chống dịch Covid – 19 trên địa bàn tỉnh. Thực In, thay đổi nội dung tuyên truyền, pano; băng
rôn treo các điểm chính trong thành phố Biên Hòa; dựng mới 200m2 pano
cố định; thay đổi nội dung 2.096m2 pano; Treo 9.200 cờ các loại;....
Hoạt động biểu diễn nghệ thuật: Nhà hát Nghệ thuật Đồng Nai làm tốt công tác
dàn dựng các chương trình nghệ thuật và tổ chức biểu diễn phục vụ các nhiệm vụ
chính trị cũng như phục vụ nhu cầu hưởng thụ văn hóa, văn nghệ của nhân dân
trong tỉnh. Tổ chức 172 buổi biểu diễn nghệ
thuật phục vụ cán bộ, chiến sỹ, nhân dân vùng sâu vùng xa và phục vụ các nhiệm
vụ chính trị trên địa bàn toàn tỉnh, thu hút 143.000 lượt người xem...
Hoạt động phát hành phim và chiếu bóng: 05 đội chiếu phim lưu động tổ
chức 1.326 buổi chiếu phim và các hoạt động văn hóa, văn nghệ phục vụ đồng bào
miền núi, vùng sâu, vùng xa, phục vụ các xã nông thôn mới và công nhân các khu
công nghiệp trong tỉnh, thu hút 74.680
lượt người xem. Đồng thời, trang trí panô, gắn loa phóng thanh trên 08
xe ô tô đội chiếu phim, tuyên truyền phòng, chống dịch CoVid-19 tại tất cả các
xã, phường trong tỉnh.
Xây dựng nếp sống văn hóa
và công tác gia đình: Chín tháng thực
hiện 500 băng rôn, 1.000 cờ tuyên
truyền nhân kỷ niệm Ngày Quốc tế hạnh phúc 20/3, Ngày Gia đình Việt Nam 28/6; cấp
phát 38.000 tờ rơi cho cơ sở tuyên truyền xây dựng đời sống văn hóa công nhân
năm 2020. Duy trì chuyên mục “Góc tư vấn Gia đình” trên webside của Sở Văn hóa,
Thể thao và Du lịch hoạt động 24/24 kịp thời cung cấp thông tin và hỗ trợ tư
vấn pháp lý về phòng, chống bạo lực gia đình... qua đó tuyên truyền nâng cao nhận thức cho nhân
dân, góp phần vào giảm thiểu tình trạng bạo lực gia đình, giảm thiểu các tệ nạn
xã hội xâm nhập vào gia đình.
b. Thể dục, thể thao
Trong 9 tháng năm 2020 Trung tâm Huấn luyện và Thi đấu
Thể dục thể thao đã tham gia 5 giải quốc tế đạt 09 huy chương các loại (02 HCV,
02 HCB, 04 HCĐ).
Công tác tổ chức giải, hỗ
trợ các hoạt động TDTT trong tỉnh: Đăng cai tổ chức 04 giải quốc gia; Tổ chức
và phối hợp tổ chức 05 giải thể thao cấp tỉnh; Hỗ trợ tổ chức các sở, ban,
ngành trong và ngoài tỉnh tổ chức 09 hoạt động, sự kiện thể thao.
c. Giáo dục - Đào
tạo
- Đánh giá kết quả giáo dục năm học 2019 - 2020
Qua triển khai thực hiện
cuộc vận động “Nói không với tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong
giáo dục, tổ chức kiểm tra, đánh giá chất lượng học sinh với các biện pháp tích
cực theo chỉ đạo của Bộ Giáo dục và Đào tạo đã thể hiện rõ được thực chất về
chất lượng giáo dục như sau: Học sinh hoàn thành chương trình tiểu học: đạt
98,29% (giảm 1,64% so cùng kỳ). Học sinh được công nhận tốt nghiệp trung học cơ
sở: đạt 98,27% (tăng 1,1% so cùng kỳ).
- Kết quả học sinh tốt nghiệp
THPT (không tính thí sinh tự do): Tỷ
lệ tốt nghiệp THPT năm 2020 của học sinh Đồng Nai ở hệ THPT đạt 99,55%, còn hệ
Giáo dục thường xuyên đạt 90,17%. Đây được xem là năm Đồng Nai có kết quả thi
tốt nghiệp THPT cao nhất từ trước đến nay, dù bị ảnh hưởng không nhỏ từ tình
hình dịch Covid-19.Trong đó tỷ lệ đậu của thí sinh THPT là 96,64%, thí sinh hệ
giáo dục thường xuyên là 67,65%. Xếp hạng điểm trung bình thi THPT quốc gia,
thí sinh Đồng Nai đạt 5,337 điểm, xếp thứ 28 trong số 63 tỉnh, thành phố trên
cả nước.
Số lượng học sinh bỏ học: Trong năm
học 2019 -2020 toàn tỉnh có 1.792 học sinh phổ thông bỏ học, chiếm tỷ lệ
0,32% Không tăng so cùng kỳ năm trước. Nguyên nhân bỏ học chính là do hoàn cảnh gia đình khó khăn, học
sinh học yếu, chán học dẫn đến bỏ học, nguyên nhân thứ hai là các gia đình nhập cư,
không ổn định việc làm và nơi cư trú, khi gia đình chuyển đi không làm thủ tục
chuyển trường cho con em, dẫn đến học sinh phải bỏ học. Trường hợp này xảy ra
phổ biến sau Tết Âm lịch, học sinh theo gia đình về quê rồi không quay lại
trường.
Tình hình khai
giảng năm học 2020 -2021
Sáng 5/9/2020, hơn 750 ngàn
học sinh của hơn 800 cơ sở giáo dục trên địa bàn toàn tỉnh đã chính thức khai
giảng, bước vào năm học mới 2020-2021. Đây là năm học đặc biệt trong bối cảnh
dịch Covid-19 nên Lễ khai giảng năm học mới được tổ chức ngắn gọn, chỉ tổ chức
khai giảng đối với học sinh đầu cấp và đại diện học sinh các khối lớp.
Tình hình Trường, lớp học, giáo viên, học sinh năm học 2020 -
2021
Theo Sở GD-ĐT, năm học mới
2020 - 2021, toàn tỉnh có 30 công trình trường học mới và xây dựng bổ sung các
phòng học cho các trường với số tiền trên 460 tỷ đồng. Bên cạnh đó, các địa
phương cũng đã đầu tư trên 200 tỷ đồng sửa chữa mua sắm thiết bị phục vụ khai
giảng năm học mới. Việc đưa vào sử dụng ngôi trường mới sẽ tiếp thêm động
lực cho tập thể cán bộ, giáo viên và học sinh ra sức thi đua thực hiện có hiệu
quả việc nâng cao chất lượng dạy và học theo hướng hiện đại, đáp ứng tiêu chí
trường đạt chuẩn Quốc gia trong Chương trình xây dựng Nông thôn mới nâng cao
tại các địa phương trên đại bàn tỉnh.
Đầu năm học 2020 – 2021,
có khoảng 757.411 học sinh các cấp học mầm non và phổ thông. So với đầu năm học
2019 -2020, tăng khoảng 48.941 học sinh phổ thông, tỷ lệ tăng 6,9%; trong đó,
chủ yếu tăng học sinh THCS tăng khoảng 7.000 học sinh, tỷ lệ tăng 3% và THPT
tăng khoảng 9.000 học sinh, tỷ lệ tăng 7%.
d. Y tế
Tính đến 15/9/2020, Tình hình dịch bệnh Covid-19 đang được khống
chế, kiểm soát trên địa bàn tỉnh, trong tháng không ghi nhận trường hợp mắc
bệnh. Cộng dồn đã ghi nhận 3 trường hợp mắc Covid-19 (đã điều trị khỏi bệnh: 3 trường hợp).
Trong
tháng 9 có 335 công dân Việt Nam trở về từ Úc đã kết thúc 14 ngày cách ly tập
trung để phòng, chống dịch Covid-19 tại Trường cao đẳng Cảnh sát Nhân dân 2 (xã
An Phước, H. Long Thành) và Bệnh viện Phổi Đồng
Nai (TP.Biên Hòa). Tính từ đầu năm 2020 đến nay, đã có 5 đoàn công dân Việt Nam
trở về từ nước ngoài hoàn thành việc cách ly tập trung phòng, chống dịch
Covid-19 tại Đồng Nai (khu cách ly Trường cao đẳng Cảnh sát Nhân dân 2 và Trung
đoàn Đồng Nai).
Một số dịch bệnh khác phát sinh trong
tháng như sau:
- Sốt xuất huyết: Tháng 9 ghi nhận 498 trường hợp, (trong đó số trường hợp trẻ ≤ 15 tuổi là 273
trường hợp, chiếm tỷ lệ 54,82%), giảm 24,89% so với tháng trước. Số trường
hợp mắc cộng dồn đến tháng 9 là 2.831 trường hợp (trong đó số trường hợp trẻ ≤
15 tuổi là 1.489 trường hợp, chiếm tỷ lệ 52,6%), giảm 76,78% so với cùng kỳ, không ghi
nhận trường hợp tử vong.
Hoạt động xử lý ổ dịch: Số ổ dịch được phát hiện trong tháng là 91
ổ dịch, giảm 69,77% so với cùng kỳ (301 ổ dịch). Tỷ lệ ổ dịch xử lý trong toàn
tỉnh đạt 99,8% (494 ổ dịch được xử lý/495 ổ dịch phát hiện).
- Sốt rét: Tổng số trường hợp mắc cộng dồn
đến tháng 9/2020 là 04, giảm 05 trường hợp so với cùng kỳ. Không ghi nhận
trường hợp tử vong. Số xét nghiệm thực hiện trong tháng: 3.515 mẫu.
- Sởi: Tổng số trường hợp mắc 9 tháng là
128 trường hợp, giảm 92,14% so với cùng kỳ 2019 (1.628 trường hợp). Không ghi
nhận trường hợp tử vong.
- Hội chứng tay chân miệng: Trong tháng có
594 trường hợp mắc, tăng 3 trường hợp so với tháng trước. Số trường hợp mắc
tăng ở 6/11 huyện/TP, tăng nhiều ở thành phố Biên Hòa, huyện Long Thành và Vĩnh
Cửu. Số trường hợp mắc TCM cộng dồn đến tháng 9 là 1.665 trường hợp, giảm
61,88% so với cùng kỳ năm 2019 (4.368
trường hợp). Không ghi nhận trường hợp tử vong.
Hoạt động xử lý ổ dịch: Trong tháng phát hiện
và xử lý 72/72 ổ dịch, số ổ dịch phát hiện tăng 20 ổ dịch so với tháng
trước. Cộng dồn từ đầu năm đến tháng 9 ghi nhận 170 ổ dịch được xử lý/172 ổ
dịch được phát hiện, đạt 98,84%.
Tình hình nhiễm HIV/AIDS: Trong tháng ghi nhận 75 trường hợp mắc mới HIV, trong đó có 45
trường hợp có địa chỉ thường trú tại tỉnh, giảm 24 trường hợp so với tháng
trước (73 trường hợp) được đưa vào điều trị. Ghi nhận 02 trường hợp nhiễm
HIV/AIDS tử vong. Tính đến tháng 9, toàn tỉnh có 5.163 trường hợp mắc HIV/AIDS (tỷ
lệ/dân số: 0,165%), duy trì tỷ lệ người nhiễm HIV trong cộng đồng dân cư trên
địa bàn toàn tỉnh được khống chế <0,3% (đạt chỉ tiêu).
Tình hình kiểm tra, kiểm soát vệ sinh, an toàn thực phẩm
Thực hiện công tác thanh kiểm tra liên
ngành, xử lý nghiêm những cơ sở vi phạm các điều kiện đảm bảo an
toàn vệ sinh thực phẩm trên địa bàn tỉnh. Trong tháng 9/2020 thực hiện
công tác kiểm tra, giám sát (02 đoàn kiểm tra liên ngành) và tổ chức
1.375 lượt thanh tra, kiểm tra cơ sở sản xuất, chế biến thực phẩm, dịch vụ ăn
uống và kinh doanh tiêu dùng thực phẩm/12.079 tổng số cơ sở, trong đó: 1.263 cơ
sở đạt (chiếm 91,86%), số cơ sở vi phạm là 112, nhắc nhở 106 cơ sở, phạt
tiền 06 cơ sở với số tiền phạt là 49.510.000 đồng. Trong tháng không ghi nhận
vụ ngộ độc thực phẩm.
- Phòng chống lao: Chín tháng năm 2020, số bệnh nhân mới phát hiện và tiếp nhận có 1.872 người, giảm 1.049
người (-35,91%) so cùng kỳ.
- Tiêm chủng mở rộng: Chín tháng, số trẻ em tiêm chủng đầy đủ 6 loại vaccin có 17.826 cháu và giảm 7.709
cháu (-44,36%) so cùng kỳ, đạt 37,03% KH; Tỷ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ em dưới 5 tuổi: Theo cân nặng: 8%; Theo chiều
cao: <23%.
- Khám chữa bệnh: Tổng số lượt khám bệnh đạt 621.098, cấp cứu: 39.220 trường hợp, nhập viện: 36.144 trường hợp, tử vong do bệnh tật: 20 trường hợp, tử vong do tai nạn giao thông: 12 trường hợp.
e. Giải quyết việc làm
Chín tháng năm 2020 đã giải quyết việc làm cho 58.620 lượt người (đạt 73,28%/KH năm
2020, giảm 18,07% so với cùng kỳ. trong đó: Thông qua các doanh nghiệp tuyển
dụng 39.972 lượt lao động; Lồng ghép các
chương trình kinh tế xã hội đã giải quyết việc làm: 18.648 lượt người (Chương
trình cho vay hộ nghèo để giải quyết việc làm: 1.785 người; Chương trình đào
tạo nghề cho lao động nông thôn: 1094
người; Cho vay vốn giải quyết việc làm: 9.018 lao động; Đưa người lao
động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài: 205 lao động; Các chương trình khác
6.506 lượt người).
Trung tâm Dịch vụ việc làm tổ
chức 07 sàn giao dịch việc làm với sự tham gia của 178 lượt doanh nghiệp và 2.755
lượt người lao động tham gia. Trong đó: Số người được tư vấn: 2.108 lượt người;
Số hồ sơ tiếp nhận tại Sàn: 1.737 hồ sơ; Số người được tuyển dụng thông qua
Sàn: 1.382 người.
Tiếp nhận
47.845 hồ sơ hưởng bảo hiểm thất nghiệp, trong đó ban hành quyết định hưởng trợ cấp thất nghiệp cho
45.006 người với tổng số tiền hưởng là 995.871 triệu đồng; tư vấn và giới thiệu
việc làm cho 49.593 lượt người, hỗ trợ học nghề cho 1.207 người.
- Tình hình quan hệ lao động tại các doanh nghiệp: Chín tháng trên địa bàn đã xảy ra 20 vụ tranh chấp lao động tập thể dẫn
đến đình công tại 20 doanh nghiệp với sự tham gia của của 4.441/9.162 lao động
(giảm 04 vụ so với cùng kỳ năm 2019), trong đó có 17 vụ xảy ra tại doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài, 03 vụ xảy ra tại doanh nghiệp có vốn trong nước. Sở Lao động thương binh và xã hội đã phối hợp với các sở, ngành, địa phương nắm tình hình quan hệ lao
động và hướng dẫn giải quyết chế độ cho người lao động tại một số doanh nghiệp
gặp khó khăn do ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19 (Công ty TNHH P&F Vina, Công
ty TNHH Epic Designers (Việt Nam)...)
f. Đào tạo nghề
Trên địa bàn tỉnh hiện có 61 cơ sở giáo dục nghề nghiệp, trong đó: có 12 trường
Cao đẳng; 05 trường Trung cấp; 24 trung tâm Giáo dục nghề nghiệp và 20 cơ sở
giáo dục nghề nghiệp khác; có
khoảng 3.290 giáo viên tham gia giảng dạy các lĩnh vực
giáo dục nghề nghiệp (2.044 giáo viên cơ hữu chiếm 62,2% và 1.246 giáo viên
thỉnh giảng chiếm 37,8%). Quy mô tuyển mới năm 2020 là 77.500 người, cụ thể: trình độ cao
đẳng là 8.200 người/năm, trình độ trung cấp là 11.500 người/năm, trình độ sơ
cấp là 57.800 người/năm.
Chín tháng,
các cơ sở giáo dục nghề nghiệp tuyển mới, đào tạo cho 61.349 người, đạt 79,16%
kế hoạch năm, thấp hơn so với cùng kỳ năm 2019 là 4,8%, trong đó: Cao đẳng:
5.294 người, Trung cấp: 9.205 người, sơ cấp và đào tạo thường xuyên là 46.850
người (Đề án đào tạo nghề cho lao động nông thôn: 1.824 người); có 52.265 người
tốt nghiệp các khóa đào tạo, đạt 76,86% kế hoạch năm 2020 và thấp hơn so với
cùng kỳ năm 2019 là 3,12%, trong đó: Cao đẳng: 4.829 người, Trung cấp: 5.947
người, sơ cấp và đào tạo thường xuyên: 41.489 người (Đề án đào tạo nghề cho lao
động nông thôn: 1.255 người).
g. Công tác giảm nghèo: Tính đến
cuối tháng 8 năm 2020, toàn tỉnh cho vay tổng số hộ vay là 1.884 hộ so cùng kỳ
đạt 72,81%. Trong đó số hộ nghèo vay 161 hộ với số tiền 6.6355 triệu đồng; hộ
cận nghèo vay 523 hộ với số tiền 22.461 triệu đồng và hộ thoát nghèo vay 1.200
hộ với số tiền 50.963 triệu đồng.
CỤC THỐNG KÊ ĐỒNG NAI