I. KINH TẾ
1. Sản xuất công nghiệp
Trong tháng 11 năm 2025, hoạt động sản xuất công nghiệp trên địa bàn tỉnh tiếp tục duy trì xu hướng tăng trưởng tích cực. Chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) tháng 11 ước tăng 1,93% so với tháng trước và tăng 18,10% so với cùng kỳ năm 2024. Tính chung 11 tháng năm 2025, chỉ số IIP toàn ngành ước tăng 14,70% so với cùng kỳ.
Ước chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) tháng 11 năm 2025 tăng 1,93% so tháng trước, tăng 18,1% so với tháng cùng kỳ năm trước. Tính chung 11 tháng năm 2025, chỉ số IIP toàn ngành công nghiệp tăng 14,70% so cùng kỳ năm 2024, trong đó: Ngành công nghiệp khai khoáng tăng 5,48%; tương ứng: Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 14,98%; Ngành sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí tăng 10,18%; Ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 8,68%. Kết quả này có được nhờ sự lãnh đạo sâu sát của Tỉnh ủy, chỉ đạo linh hoạt - quyết liệt của Ủy ban nhân dân tỉnh, cùng với sự phối hợp chặt chẽ của các sở, ban, ngành và chính quyền các địa phương trong việc kịp thời tháo gỡ khó khăn, hỗ trợ hoạt động sản xuất - kinh doanh, thúc đẩy chuyển đổi số và cải thiện mạnh mẽ môi trường đầu tư. Bên cạnh, nhờ doanh nghiệp mở rộng và tìm kiếm được thị trường tiêu thụ, ký kết được nhiều đơn hàng mới; một số doanh nghiệp đã tăng tốc sản xuất sản phẩm đáp ứng nhu cầu đơn hàng ký kết, đã góp phần tăng trưởng của chỉ số IIP của tỉnh.
Trong các ngành công nghiệp cấp II, một số ngành có chỉ số sản xuất tăng cao so với cùng kỳ năm trước như: Bê tông trộn sẵn (bê tông tươi) tăng 34,72%; Mạch điện, tủ điện, sản phẩm điện tử khác tăng 27,22%; Thép dạng thô và bán thành phẩm tăng 26,80%; Thuốc lá sợi tăng 24,77%; Săm, lốp các loại tăng 15,96%; Thuốc trừ sâu tăng 15,05%; Giày dép các loại tăng 14,63%; Giường, tủ, bàn ghế tăng 14,45%;...
- Chỉ số sử dụng lao động: Trong 11 tháng năm 2025, chỉ số sử dụng lao động trong ngành công nghiệp (cấp 1) của tỉnh tăng 4,70% so với cùng kỳ năm trước, phản ánh nhu cầu tuyển dụng tăng trở lại cùng với xu hướng mở rộng sản xuất của doanh nghiệp.
Năm 2025, nhiều doanh nghiệp ghi nhận lượng đơn hàng mới tăng đáng kể, đặc biệt ở các ngành thâm dụng lao động như da giày, may mặc, linh kiện điện tử…. Điều này kéo theo nhu cầu tuyển dụng lao động tăng cao, tạo động lực cho thị trường việc làm công nghiệp trở nên sôi động hơn.
Dự báo từ nay đến cuối năm, nhu cầu tuyển dụng tiếp tục duy trì xu hướng tăng, nhất là trong các doanh nghiệp xuất khẩu khi bước vào thời điểm hoàn tất các đơn hàng lớn phục vụ dịp cuối năm.
- Chỉ số hàng tiêu thụ: Ước tính 11 tháng năm 2025, chỉ số tiêu thụ sản phẩm công nghiệp của tỉnh tăng 11,19% so với cùng kỳ năm 2024. Đây là mức tăng khá ấn tượng, cho thấy khả năng tiêu thụ sản phẩm của các doanh nghiệp công nghiệp trên địa bàn đang ở trạng thái rất tích cực.
Nhu cầu thị trường tăng, cùng với năng lực sản xuất được củng cố, đã giúp các doanh nghiệp vừa bảo đảm tiến độ giao hàng cho đối tác, vừa duy trì sản lượng ổn định. Mối liên kết cung – cầu giữa doanh nghiệp sản xuất và thị trường tiêu thụ được cải thiện rõ nét, tạo tiền đề thuận lợi cho tăng trưởng những tháng cuối năm.
- Chỉ số hàng tồn kho: Trong 11 tháng năm 2025, chỉ số hàng tồn kho của ngành công nghiệp trên địa bàn tỉnh tăng 70,94% so với cùng kỳ năm trước, chủ yếu do các doanh nghiệp tập trung dự trữ hàng hóa chờ xuất khẩu theo lô lớn để tối ưu chi phí logistics vào cuối năm
2. Tài chính - Ngân hàng
a) Tài chính
Theo báo cáo tình hình thu, chi ngân sách Nhà nước trên địa bàn tỉnh (Sở tài chính) trong 11 tháng năm 2025 tiếp tục đạt kết quả tích cực, phản ánh sự phục hồi mạnh mẽ của hoạt động sản xuất, kinh doanh và hiệu quả của các giải pháp điều hành tài chính – ngân sách. Tổng thu ngân sách Nhà nước trên địa bàn tỉnh (đã loại trừ hoàn thuế) ước thực hiện 11 tháng năm 2025 đạt 65.266,19 tỷ đồng, tăng 41,38% so cùng kỳ năm trước. Trong đó:
- Thu nội địa ước đạt 62.227,1 tỷ đồng, tăng 36,08%. Một số khoản thu chủ yếu như sau: Thu từ doanh nghiệp Nhà nước đạt 5.372,04 tỷ đồng, tăng 22,34%; Thu từ khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đạt 15.844,51 tỷ đồng, tăng 11,91%; Thu từ khu vực kinh tế ngoài Nhà nước đạt 10,517,2 tỷ đồng, tăng 31,85%; Thuế thu nhập cá nhân 8.641,05 tỷ đồng, tăng 20,94%; Các khoản thu về nhà, đất 12.191,47 tỷ đồng, gấp hơn 3 lần so với cùng kỳ.
- Thu cân đối từ hoạt động xuất, nhập khẩu 11 tháng ước đạt 2.927,59 tỷ đồng, gấp 8,3 lần so cùng kỳ, cho thấy sự phục hồi mạnh của hoạt động thương mại quốc tế và hiệu quả công tác quản lý thuế xuất nhập khẩu.
Tổng chi ngân sách Nhà nước ước thực hiện 11 tháng năm 2025 đạt 58.023,45 tỷ đồng[1], tăng 21,7% so với cùng kỳ. Trong đó: Chi đầu tư phát triển đạt 24.776,31 tỷ đồng, tăng 7,88% (chủ yếu chi đầu tư cho các dự án theo các lĩnh vực 24.220,5 tỷ đồng, tăng 8,47%); Chi thường xuyên đạt 33.225,29 tỷ đồng, tăng 35,12% (Chi giáo dục, đào tạo và dạy nghề 11.034,69 tỷ đồng, tăng 19,52%; Chi hoạt động của các cơ quan quản lý Nhà nước, Đảng, đoàn thể 8.495,06 tỷ đồng, tăng 85,1%; Chi đảm bảo xã hội 2.521,37 tỷ đồng, tăng 38,72% so với cùng kỳ).
b) Hoạt động Ngân hàng
Hoạt động huy động vốn: Trong tháng 11 năm 2025, tổng nguồn vốn huy động tăng 11,58% so với đầu năm. Trong đó, nguồn vốn huy động chủ yếu là VND, chiếm 93,94%. Lãi suất huy động tăng nhẹ trong tháng 11/2025 đã góp phần thu hút được lượng tiền gửi vào ngân hàng vào các tháng cuối năm, là kênh đầu tư dẫn đầu về bảo đảm an toàn vốn cho người dân. Tổng nguồn vốn huy động trên địa bàn ước đến 30/11/2025 đạt 465.800 tỷ đồng, tăng 11,58% so với đầu năm. Trong đó: Huy động từ phát hành các giấy tờ có giá ước đạt 2.700 tỷ đồng, giảm 27,52%; Tiền gửi ước đạt 463.100 tỷ đồng, tăng 11,93% so với đầu năm.
Hoạt động tín dụng: Tổng dư nợ tính đến ngày 30/11/2025 ước đạt 586.000 tỷ đồng, tăng 10,81% so với đầu năm.
3. Sản xuất Nông - Lâm nghiệp và thủy sản
Sản xuất nông nghiệp trong tháng 11 tập trung vào chăm sóc, chuẩn bị thu hoạch lúa mùa và cây hoa màu. Chăn nuôi phát triển ổn định, dịch bệnh được kiểm soát, tập trung phát triển đàn lợn và gia cầm, bảo đảm nguồn cung thực phẩm cho dịp lễ, tết cuối năm; Hoạt động sản xuất lâm nghiệp diễn ra tương đối thuận lợi, công tác khai thác gỗ được triển khai tích cực.
a) Nông Nghiệp
Cây hàng năm: Tổng diện tích gieo trồng cây hàng năm ước tính 11 tháng năm 2025 trên địa bàn tỉnh đã gieo trồng được 164.417,36 ha, giảm 1.608,02 ha (-0,97%) so với cùng kỳ. Cụ thể như sau:
Cây lúa là 61.460,98 ha, giảm 173,54 ha (-0,28%) so cùng kỳ, bao gồm diện tích lúa vụ Đông Xuân 18.550,29 ha, tăng 150,08 ha (+0,82%); vụ Hè Thu 18.463,74 ha, giảm 46,8 ha (-0,25%) và vụ Mùa 24.446,95 ha, giảm 276,82 ha (-1,12%).
Chăn nuôi: Tình hình chăn nuôi trên địa bàn trong tháng tương đối ổn định, mặc dù có phát sinh dịch bệnh tuy nhiên vẫn trong tầm kiểm soát. Tổng đàn gia súc có đến thời điểm tháng 11/2025 là 3.833.553 con, tăng 87.803 con (+2,34%) so cùng kỳ. Trong đó: Trâu 16.550 con, tăng 143 con (+0,87%); Bò 146.825 con, tăng 5.128 con (+3,48%). Số lượng trâu, bò tăng do nhu cầu tiêu dùng thịt gia súc cao, hộ chăn nuôi đầu tư thêm giống. Đàn lợn 3.670.153 con (không tính heo con chưa tách mẹ), tăng 86.343 con (+2,41%) so cùng kỳ.
Tổng đàn gia cầm có đến tháng 11/2025 là 35.753,21 ngàn con, tăng khoảng 1.006,99 ngàn con (+2,9%) so cùng kỳ; trong đó đàn gà đạt 32.362,51 ngàn con, tăng 864,79 ngàn con (+2,75%) so cùng kỳ và chiếm 90,52% tổng đàn gia cầm. Đàn gà tăng nhờ nhu cầu ổn định đối với thịt gà và trứng; công tác tiêm phòng, giám sát dịch bệnh thực hiện chặt chẽ, hạn chế ảnh hưởng của cúm và các bệnh truyền nhiễm, tạo điều kiện mở rộng quy mô nuôi.
b) Lâm nghiệp
Dự ước diện tích rừng trồng mới trong tháng đạt 93,44 ha, tăng 9,16% so với tháng cùng kỳ; Lũy kế 11 tháng ước đạt được 4.032,07 ha, tăng 2,03% so với cùng kỳ. Nguyên nhân diện tích tăng là do năm nay các chủ rừng tiến hành trồng mới trên những diện tích đã thu hoạch để đảm bảo nguồn cung của thị trường.
Sản lượng khai thác gỗ trong tháng dự ước đạt 87.872,70 m3, giảm 0,44% so với tháng cùng kỳ; Lũy kế ước đạt 424.781,38 m3, tăng 12.789,41 m3 (+3,1%) so cùng kỳ. Nguyên nhân tăng là do diện tích rừng sản xuất đến kỳ thu hoạch và một số diện tích khai thác tận thu dự án chuyển đổi quy hoạch.
c) Thủy sản
Dự ước tổng sản lượng thủy sản nuôi trồng 11 tháng năm 2025, tổng sản lượng thủy sản nuôi trồng ước đạt 75.498,07 tấn, tăng 4.656,20 tấn (+6,57%) so cùng kỳ. Trong đó: Cá đạt 66.104,65 tấn, tăng 4.290,01 tấn (+6,94%); Tôm 7.638,68 tấn, tăng 259,04 tấn (+3,51%); Thủy sản khác đạt 1.754,74 tấn, tăng 107,15 tấn (+6,5%) so cùng kỳ. Tổng sản lượng thủy sản nuôi trồng tiếp tục duy trì tăng trưởng ổn định do nhu cầu thị trường và giá bán sản phẩm thủy sản tăng cao.
4. Vốn đầu tư ngân sách nhà nước
Trong bối cảnh tỉnh Đồng Nai đang quyết liệt triển khai các giải pháp nhằm đạt mục tiêu tăng trưởng GRDP trên 10% năm 2025, công tác giải ngân vốn đầu tư công tiếp tục được xác định là nhiệm vụ trọng tâm. Các cấp chính quyền đã tập trung chỉ đạo quyết liệt, kịp thời tháo gỡ vướng mắc, đẩy nhanh tiến độ thi công và giải ngân vốn, đặc biệt đối với các dự án trọng điểm, có tính lan tỏa cao.
Dự ước 11 tháng năm 2025 thực hiện 23.778,97 tỷ đồng, tăng 55,30% so cùng kỳ, trong đó vốn khu vực nhà nước cấp tỉnh đạt 23.754,66 tỷ đồng, tăng 55,36% so cùng kỳ; Vốn ngoài nhà nước cấp xã đạt 24,31 tỷ đồng, tăng 13,08% so cùng kỳ.
5. Thu hút đầu tư và đăng ký doanh nghiệp
Trong 11 tháng năm 2025, công tác thu hút đầu tư của tỉnh Đồng Nai tiếp tục đạt kết quả tích cực, giữ vững vai trò là điểm đến hấp dẫn của các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Môi trường đầu tư, kinh doanh tiếp tục được cải thiện, công tác cải cách thủ tục hành chính được triển khai mạnh mẽ, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp phát triển và mở rộng sản xuất.
Thu hút đầu tư nước ngoài: Từ đầu năm đến ngày 21/11/2025, thu hút đầu tư nước ngoài (FDI) đạt 2.956 triệu USD, trong đó: cấp mới 171 dự án với tổng vốn đăng ký 1.498 triệu USD và 173 dự án tăng vốn với tổng vốn bổ sung 1.458 triệu USD.
Thu hút đầu tư trong nước: Từ đầu năm đến ngày 21/11/2025, thu hút vốn đầu tư đạt 162.355,94 tỷ đồng. Trong đó: có 101 dự án cấp mới với tổng vốn đăng ký khoảng 132.707,22 tỷ đồng, có 42 dự án tăng vốn với số vốn đăng ký bổ sung là 33.513,07 tỷ đồng, có 08 dự án giảm vốn với số vốn đăng ký giảm khoảng 3.864,34 tỷ đồng.
Tình hình phát triển doanh nghiệp: Từ đầu năm đến ngày 15/11/2025, tổng vốn đăng ký thành lập mới doanh nghiệp và bổ sung tăng vốn là 128.300 tỷ đồng. Trong đó: có 7.103 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới, tăng 29,14%, với tổng vốn đăng ký khoảng 55.574 tỷ đồng; Có 1.475 doanh nghiệp đăng ký tăng vốn với số vốn bổ sung khoảng 72.726 tỷ đồng. Ngoài ra có 2.790 Chi nhánh, địa điểm kinh doanh và văn phòng đại diện đăng ký hoạt động trên địa bàn tỉnh, tăng 9,4% so với cùng kỳ năm 2024. Số doanh nghiệp hoạt động trở lại tính từ đầu năm tới ngày 25/11/2025 là 1.516 doanh nghiệp, tăng 15,2% và 798 chi nhánh, địa điểm kinh doanh, văn phòng đại diện hoạt động trở lại, tăng 89,55% so cùng kỳ.
Ở chiều ngược lại, từ đầu năm đến ngày 15/11/2025, có 1.388 doanh nghiệp giải thể, tăng 87,8% so với cùng kỳ và 1.050 Chi nhánh, địa điểm kinh doanh và văn phòng đại diện chấm dứt hoạt động, tăng 17%; có 2.608 doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh, tăng 3,33% so cùng kỳ. Các doanh nghiệp này chủ yếu là doanh nghiệp nhỏ và vừa và thuộc khu vực kinh tế tư nhân. Lý do giải thể, chấm dứt hoạt động và tạm ngừng kinh doanh chủ yếu là do doanh nghiệp kinh doanh không hiệu quả.
Về công tác hỗ trợ doanh nghiệp: Công tác hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa được tăng cường, nhất là doanh nghiệp trong lĩnh vực nông nghiệp tham gia các mô hình liên kết theo chuỗi giá trị, thúc đẩy sản xuất nông nghiệp sạch, quảng bá sản phẩm và kết nối thị trường. Cùng với đó, hoạt động đào tạo nguồn nhân lực, hỗ trợ hộ kinh doanh chuyển đổi, phát triển sản phẩm OCOP và kết nối tiêu thụ nông sản được triển khai rộng rãi.
6. Thương mại du lịch, giá cả, xuất nhập khẩu và vận tải
6.1. Thương mại và dịch vụ
Tháng 11, hoạt động thương mại và dịch vụ trên địa bàn tỉnh Đồng Nai sôi động rõ rệt khi bước vào mùa mua sắm cao điểm cuối năm và chuẩn bị cho dịp lễ Noel, Tết. Các kênh bán lẻ như cửa hàng, siêu thị và trung tâm thương mại đồng loạt triển khai những chương trình khuyến mãi lớn nhất trong năm, tập trung vào các dịp mua sắm cao điểm như ngày 11/11 và Black Friday nhằm kích thích nhu cầu mua sắm của người tiêu dùng. Ngành Công Thương tỉnh tiếp tục triển khai các hoạt động xúc tiến thương mại, nổi bật là Hội chợ triển lãm sản phẩm công nghiệp nông thôn tiêu biểu vùng Đông Nam Bộ – Đồng Nai năm 2025. Hội chợ quy tụ khoảng 250 gian hàng sản phẩm OCOP và đặc sản địa phương, qua đó tạo cơ hội kết nối giao thương, mở rộng thị trường tiêu thụ cho doanh nghiệp và quảng bá thế mạnh kinh tế của tỉnh.
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng 11 năm 2025 ước đạt 41.571,27 tỷ đồng, tăng 2,43% so tháng trước và tăng 19,02% so tháng cùng kỳ năm trước. Lũy kế 11 tháng tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng ước đạt 422.396,13 tỷ đồng, tăng 18,52% so cùng kỳ. Cụ thể phân theo ngành hoạt động như sau:
- Doanh thu bán lẻ hàng hóa tháng 11 ước đạt 29.884,7 tỷ đồng, tăng 2,55% so với tháng trước, tăng 17,41% so cùng kỳ. Lũy kế 11 tháng doanh thu bán lẻ ước đạt 303.975,6 tỷ đồng, tăng 17,11% so với cùng kỳ năm trước. Một số nhóm ngành chính có mức tăng cao so với cùng kỳ, gồm: Xăng dầu tăng 29%; gỗ và vật liệu xây dựng tăng 20%. Nhóm vật phẩm văn hóa, giáo dục tăng 15,87%, hàng lương thực tăng 15,72%; hàng may mặc tăng 12,97%; đồ dùng, dụng cụ, thiết bị gia đình tăng 10,74%...
- Dự ước doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống tháng 11 ước đạt 4.404,7 tỷ đồng, tăng 1,97% so với tháng trước, tăng 20,42% so cùng kỳ. Lũy kế 11 tháng doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống ước đạt 45.067 tỷ đồng, tăng 19,97% so cùng kỳ, trong đó: Doanh thu dịch vụ lưu trú ước đạt 980,7 tỷ đồng, tăng 32,74%; Doanh thu dịch vụ ăn uống ước đạt 44.086,2 tỷ đồng, tăng 19,72%.
- Doanh thu du lịch lữ hành tháng 11 ước đạt 39,7 tỷ đồng, tăng 2,09% so với tháng trước và tăng 49,29% so cùng kỳ. Lũy kế 11 tháng doanh thu du lịch lữ hành ước đạt 388,3 tỷ đồng, tăng 38,58% so cùng kỳ. Ngành du lịch Đồng Nai đang đứng trước cơ hội phát triển nhờ nhiều yếu tố thuận lợi như: Hạ tầng giao thông trọng điểm với Sân bay quốc tế Long Thành và cao tốc Biên Hòa - Vũng Tàu sắp hoàn thành sẽ mở lối thu hút lượng lớn du khách; Vườn quốc gia Cát Tiên vừa đạt 4 giải thưởng du lịch sinh thái quốc tế, minh chứng cho hướng đi du lịch xanh. Bên cạnh đó, tỉnh cũng đẩy mạnh hoạt động xúc tiến, liên kết vùng để tạo các tuyến du lịch đa trải nghiệm, tổ chức thành công Tuần lễ du lịch, văn hóa năm 2025, phát triển hiệu quả mô hình du lịch cộng đồng, đồng thời chú trọng chuyển đổi số và xây dựng hệ sinh thái du lịch thông minh.
- Doanh thu dịch vụ tháng 11 ước đạt 7.242,2 tỷ đồng, tăng 2,26% so với tháng trước và tăng 25,07% so với cùng kỳ. Lũy kế 11 tháng ước đạt 72.965,4 tỷ đồng, tăng 23,69% so cùng kỳ. Một số ngành dịch vụ tăng so với cùng kỳ như: Nghệ thuật, vui chơi và giải trí tăng 30,03%; kinh doanh bất động sản tăng 26,31%; hành chính và hỗ trợ tăng 20,81%; y tế và hoạt động trợ giúp xã hội tăng 19,86%; giáo dục và đào tạo tăng 19,72%...
6.2. Xuất, nhập khẩu hàng hóa
Hoạt động xuất, nhập khẩu tháng 11 tiếp tục duy trì đà tăng trưởng tích cực. Dự ước kim ngạch xuất khẩu tháng 11 đạt 3.001,6 triệu USD, tăng 0,68% so với tháng trước và tăng 11,8% so với cùng kỳ. Tính chung 11 tháng, kim ngạch xuất khẩu ước đạt 31.732 triệu USD, tăng 17,18% so với cùng kỳ.
Mặt hàng xuất khẩu chủ yếu 11 tháng duy trì mức tăng trưởng khá so cùng kỳ như: Cao su 1.218,1 triệu USD, tăng 40,3%; gỗ và sản phẩm gỗ 2.460,7 triệu USD, tăng 37,13%; máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện 2.236 triệu USD, tăng 35,82%; hạt điều 2.516 triệu USD, tăng 33,11%; nguyên phụ liệu dệt, may, da, giày 414,8 triệu USD, tăng 20,46%; cà phê 1.413,2 triệu USD, tăng 16%; hạt tiêu 175,5 triệu USD, tăng 11,6%; giày dép các loại 5.202 triệu USD, tăng 9,28%; máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng khác 3.004,2 triệu USD, tăng 8%; xơ, sợi dệt các loại 1.112,7 triệu USD, tăng 5,82%; hàng dệt may 2.021,4 triệu USD, tăng 5,5%; phương tiện vận tải và phụ tùng 1.253,5 triệu USD, tăng 3,85%... chiều ngược lại, một số nhóm hàng ghi nhận mức giảm do thị trường tiêu thụ giảm, như: sản phẩm từ chất dẻo 457,1 triệu USD, giảm 0,71% và sản phẩm từ sắt thép 720,3 triệu USD, giảm 13,5%. Cơ cấu hàng xuất khẩu của Đồng Nai tiếp tục đa dạng, với sự tăng trưởng của các mặt hàng nông sản chủ lực, hàng công nghiệp chế biến, chế tạo và điện tử, góp phần duy trì đà tăng trưởng xuất khẩu chung của tỉnh.
Về thị trường xuất khẩu, Hoa Kỳ tiếp tục là thị trường xuất khẩu lớn nhất của tỉnh với kim ngạch đạt 10.976 triệu USD, chiếm 34,6% tổng kim ngạch xuất khẩu. Các nhóm hàng xuất khẩu chủ yếu sang thị trường này gồm: Giày dép các loại; gỗ và sản phẩm gỗ; máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện; máy móc, thiết bị, dụng cụ phụ tùng khác; hàng dệt may...
Trung Quốc là thị trường lớn thứ hai với kim ngạch xuất khẩu ước đạt 4.035 triệu USD, chiếm 12,72%, mặt hàng xuất khẩu chủ yếu: Cao su, hạt điều, giày dép và xơ, sợi dệt, tiếp theo Nhật Bản với 2.570 triệu USD, chiếm 8,1%, là thị trường tương đối ổn định đối với các mặt hàng gỗ và sản phẩm gỗ, giày dép, máy móc, máy vi tính và sản phẩm điện tử, Hàn Quốc 1.265 triệu USD, chiếm 4%, các nhóm hàng xuất khẩu chính gồm sản phẩm gỗ, máy móc thiết bị, xơ sợi dệt, giày dép và phương tiện vận tải.
Các thị trường khác như Anh, Thái Lan, Bỉ và Đức chiếm khoảng 2–2,5% trong tổng kim ngạch xuất khẩu.
Kim ngạch nhập khẩu tháng 11 năm 2025 ước đạt 1.961,4 triệu USD, tăng 1,42% so tháng trước và tăng 8,5% so cùng kỳ. Lũy kế 11 tháng kim ngạch nhập khẩu ước đạt 22.012,3 triệu USD, tăng 14,95% so cùng kỳ.
Một số nhóm hàng nhập khẩu chủ yếu ghi nhận mức tăng cao so cùng kỳ như: Cao su ước đạt 443,2 triệu USD, tăng 43,77%, tiếp theo là gỗ và sản phẩm gỗ 382 triệu USD, tăng 24,26%; thức ăn gia súc và nguyên liệu 647,6 triệu USD, tăng 16,73%; máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng khác 2.601,7 triệu USD, tăng 16,04%; máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện 2.072,1 triệu USD; tăng 14,46% hạt điều 2.563,6 triệu USD, tăng 10,67%; xơ, sợi dệt tăng 10,23%, nguyên phụ liệu dệt may, da giày tăng 10,13%... Ngoài ra, một số nhóm hàng khác duy trì mức tăng ổn định như hóa chất tăng 5,87%, vải các loại tăng 4,6%, chất dẻo nguyên liệu tăng 4,35% và sắt thép các loại tăng 2,46%...
Về thị trường nhập khẩu hàng hóa, Trung Quốc là thị trường nhập khẩu lớn nhất với kim ngạch nhập khẩu 11 tháng ước đạt 7.852 triệu USD, chiếm 35,67% tổng kim ngạch nhập khẩu, hàng hóa nhập khẩu chủ yếu là: Máy móc, thiết bị, dụng cụ phụ tùng, máy vi tính, sản phẩm điện tử, chất dẻo nguyên liệu, hóa chất, vải các loại, nguyên phụ liệu dệt, may, da, giày…
Các thị trường khác như: Hàn Quốc ước đạt 2.142 triệu USD, chiếm 9,73%; Hoa kỳ 1.244 triệu USD, chiếm 5,65%; Đài loan 1.230 triệu USD, chiếm 5,9%; Nhật Bản ước đạt 1.113 triệu USD, chiếm 5,06%; Indonesia ước đạt 709,6 triệu USD, chiếm 3,22%...
Lũy kế 11 tháng năm 2025, cán cân thương mại hàng hóa của Đồng Nai đạt xuất siêu khoảng 9,7 tỷ USD (chính thức 10 tháng xuất siêu của tỉnh đạt 8,7 tỷ USD). Bình quân tháng xuất siêu đạt 884 triệu USD.
6.3. Giao thông vận tải
Hoạt động vận tải trong tháng 11 duy trì đà phát triển khả quan. Đây là giai đoạn các doanh nghiệp đẩy mạnh sản xuất, kinh doanh hàng hóa phục vụ nhu cầu cuối năm, kéo theo nhu cầu vận chuyển nguyên vật liệu phục vụ đơn hàng Tết và giao hàng xuất khẩu tăng mạnh.
Dự ước doanh thu toàn ngành vận tải, kho bãi và dịch vụ hỗ trợ vận tải tháng 11 đạt 4.552,4 tỷ đồng, tăng 2,22% so tháng trước và tăng 26,04 so với cùng kỳ. Tính chung 11 tháng doanh thu vận tải ước đạt 46.054 tỷ đồng, tăng 19,66% so cùng kỳ. Cụ thể:
Doanh thu vận tải hành khách tháng 11 ước đạt 659,4 tỷ đồng tăng 1,61% so tháng trước và tăng 24% so cùng kỳ. Doanh thu vận tải hàng hóa tháng 11 ước đạt 2.713 tỷ đồng tăng 2,29% so tháng trước và tăng 26,93% so cùng kỳ. Lũy kế 11 tháng ước đạt 27.411,4 tỷ đồng tăng 21,6% so cùng kỳ.
Ước doanh thu kho bãi và dịch vụ hỗ trợ vận tải đạt 1.178 tỷ đồng, tăng 2,39% so tháng trước và 25,18% so cùng kỳ. Lũy kế 11 tháng ước đạt 11.695,2 tỷ đồng, tăng 15,22% so cùng kỳ. Nhu cầu lưu kho, bốc xếp, logistics và dịch vụ hỗ trợ vận tải lượng hàng hóa xuất nhập khẩu và hàng dự trữ Tết tăng lên. Các đơn vị logistics, kho ngoại quan, ICD đều tăng công suất phục vụ đảm bảo sự thông suốt của chuỗi cung ứng và sẵn sàng phục vụ mùa cao điểm cuối năm.
6.4. Giá cả thị trường
Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 11/2025 tăng 0,8% so tháng trước; tăng 3,52% so cùng kỳ; bình quân 11 tháng tăng 3,42% so với bình quân cùng kỳ. Nguyên nhân tăng do những yếu tố khách quan như thời tiết diễn biến bất lợi do ảnh hưởng của nhiều cơn bão và mưa lớn kéo dài tại các tỉnh miền Trung và Tây Nguyên đã gây ra tình trạng sạt lở và lũ lụt nghiêm trọng. Hậu quả là nhiều diện tích hoa màu và rau củ bị thiệt hại nặng nề, nguồn cung giảm mạnh, đẩy giá các mặt hàng rau xanh tăng cao đột biến, có mặt hàng tăng gấp 4-5 lần so với ngày thường; giá xăng dầu được điều chỉnh tăng 04 lần trong tháng, trong khi giá gas lại có xu hướng giảm từ ngày 01/11. Ở chiều ngược lại, giá heo hơi tiếp tục đà giảm do nguồn cung trong nước dư thừa và lượng thịt nhập khẩu tăng, góp phần kiềm chế mức tăng chung của CPI.
Diễn biến chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 11/2025 như sau:
So với tháng trước CPI tháng 11/2025 tăng 0,8% (khu vực thành thị tăng 1,06%; nông thôn tăng 0,56%). Trong 11 nhóm hàng chính có 09 nhóm tăng, 02 nhóm giảm so tháng trước, cụ thể:
Chỉ số giá nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tháng 11/2025 tăng 1,1% so với tháng trước, đóng góp đáng kể 0,41 điểm phần trăm vào mức tăng chung của CPI. Trong đó, nhóm thực phẩm là nhân tố chính thúc đẩy mức tăng này. Chỉ số giá nhóm lương thực tăng 0,26%, đóng góp 0,01 điểm phần trăm vào CPI chung. Sự tăng giá này chủ yếu đến từ nhóm gạo (+1,13%), trong khi các mặt hàng lương thực chế biến cũng tăng nhẹ (+0,21%). Nguyên nhân chính là do tình hình mưa bão, lũ lụt nghiêm trọng tại các tỉnh miền Trung và Tây Nguyên trong tháng 11 đã làm tăng nhu cầu lương thực dự trữ và cứu trợ. Bên cạnh đó, tình hình xuất khẩu gạo thuận lợi, giá xuất khẩu ổn định cũng góp phần giữ mặt bằng giá bán lẻ trong nước ở mức cao.
Thực phẩm có mức tăng 1,36%, đóng góp 0,3 điểm phần trăm vào CPI chung. Trong đó: Rau tươi, khô và chế biến (+12,66%): Đây là nhóm có mức tăng cao nhất. Thiệt hại nặng nề do bão lũ tại các vùng trồng trọng điểm miền Trung và Tây Nguyên đã làm sản lượng rau, củ, quả hư hại nhiều, nguồn cung giảm mạnh. Nhiều tuyến đường vận chuyển bị chia cắt cũng gây khó khăn cho việc lưu thông hàng hóa làm cho giá nhiều loại rau tăng gấp 4-5 lần. Cụ thể: Cà chua tăng 14,66%; rau muống tăng 21,06%; bắp cải tăng 17,21%; su hào tăng 11,72%, v.v.
Ngược lại với xu hướng tăng chung, giá thịt heo trên thị trường tương đối ổn định và có xu hướng giảm nhẹ, đặc biệt tại các siêu thị và cửa hàng tiện lợi nhờ các chương trình khuyến mãi giảm giá. Các mặt hàng khác như đường (+1,28%), cà phê hòa tan (+1,02%), bơ, sữa, pho mai (+0,41%) đều có xu hướng tăng do nhu cầu cuối năm tăng cao, kéo theo giá nguyên liệu và chi phí vận chuyển tăng.
Nhà ở, Điện, Nước, Chất đốt và Vật liệu xây dựng tăng 1,24%, đóng góp 0,25 điểm phần trăm vào mức tăng chung của CPI. Sự biến động giá trong nhóm này đến từ nhiều yếu tố khác nhau: Giá dịch vụ cho thuê nhà ở tăng mạnh 2,18%. Nguyên nhân là do xu hướng điều chỉnh giá thuê theo hợp đồng vào dịp cuối năm của nhiều chủ nhà, cùng với chi phí phát sinh khi lắp đặt thêm các hệ thống phòng cháy, chữa cháy; Giá vật liệu bảo dưỡng tăng 0,34%. mức tăng này chịu tác động bởi giá sắt thép trên thị trường thế giới tăng và chi phí khai thác cát, đá tăng do ảnh hưởng của mùa mưa; Giá điện sinh hoạt tháng 10 tăng 0,93%, giá dầu hỏa tăng mạnh 6,86% do ảnh hưởng từ 04 đợt điều chỉnh tăng giá xăng dầu trong tháng. Ngược lại,Giá gas tháng 11/2025 giảm 1,22% (tương ứng giảm 5.000 đồng/bình 12 kg).
Chỉ số giá nhóm giao thông tăng 1,07% so với tháng trước, đóng góp 0,13% vào mức tăng chung. Nguyên nhân chủ yếu đến từ việc giá các mặt hàng xăng dầu bình quân tăng, do ảnh hưởng của giá thế giới và các đợt điều chỉnh giá trong nước. Điều này đã làm cho chỉ số giá nhóm nhiên liệu tăng mạnh 2,6% so với tháng trước: trong đó: Xăng tăng 2,7%; Dầu Diezel tăng 5,79%.
Đối với dịch vụ giao thông công cộng giá tăng nhẹ 0,63%. Mức tăng này chủ yếu do dịch vụ vận tải hành khách bằng đường hàng không tăng 3,61%, trong khi đó vận tải hành khách bằng đường sắt lại giảm 6,27%. Dù giá vé tàu hỏa trong tháng 11 có xu hướng giảm nhẹ, nhưng đây là giai đoạn cao điểm chuẩn bị cho vé tàu Tết Nguyên đán có xu hướng tăng cao hơn so với ngày thường, đặc biệt là các tuyến từ Nam ra Bắc sát Tết. Ở chiều ngược lại, giá xe và phương tiện trong tháng giảm 0,29%. Trong khi đó, giá các mặt hàng phụ tùng tương đối ổn định so với tháng trước.
Các nhóm hàng hóa và dịch vụ còn lại ghi nhận mức tăng nhẹ từ 0,03% đến 0,38% so với tháng trước. Riêng có hai nhóm có chỉ số giá giảm là Bưu chính viễn thông giảm 0,23% Nguyên nhân chính là do giá các mặt hàng thiết bị thông tin và truyền thông giảm 0,5%. Sự sụt giảm này xuất phát từ các chương trình khuyến mãi, giảm giá mạnh từ các cửa hàng nhằm kích thích nhu cầu mua sắm, giải phóng hàng tồn kho và chuẩn bị nhập các mẫu mã mới phục vụ nhu cầu mua sắm cuối năm và Văn hóa, giải trí, du lịch giảm 1,16% Giá tour du lịch trong nước giảm 5,04% do ảnh hưởng của thời tiết mưa nhiều, nhu cầu du lịch giảm, nhiều công ty lữ hành buộc phải giảm giá tour để thu hút khách hàng.
So với cùng tháng năm trước, CPI tháng 11/2025 tăng 3,52%. Trong 11 nhóm hàng tiêu dùng chính có 09 nhóm tăng giá, trong đó:
Tăng cao nhất là nhóm Thuốc và dịch vụ y tế (+12,97%) nguyên nhân là do Thông tư số 21/2024/TT-BYT của Bộ Y tế; tăng thấp nhất là nhóm thiết bị đồ dùng và gia đình tăng 1,71%. Có 02 nhóm giảm là giao thông giảm 0,51%; bưu chính viễn thông giảm 0,57%.
Chỉ số giá tiêu dùng bình quân 11 tháng năm 2025 tăng 3,42% so bình quân cùng kỳ. Trong 09 nhóm hàng hoá tăng giá, tăng cao nhất nhóm thuốc và dịch vụ y tế tăng 13,18%, đồ dùng và dịch vụ khác tăng 8,54%, hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 4,22%, đồ uống và thuốc lá tăng 2,37%, nhà ở, chất đốt và VLXD tăng 3,47%. Có 02 nhóm chỉ số giá giảm là giao thông giảm 3,69%, bưu chính viễn thông giảm 0,71%.
Chỉ số giá vàng tháng 11 tiếp tục ghi nhận mức tăng đáng kể, phản ánh xu hướng tăng mạnh của giá vàng thế giới. Mức tăng 1,34% so với tháng trước và 60,98% so với cùng kỳ năm trước cho thấy thị trường vàng đang ở trong giai đoạn biến động mạnh, giá vàng thế giới leo cao do nhu cầu mua ròng liên tục từ các ngân hàng trung ương và các quỹ giao dịch (ETF) nhằm đa dạng hóa dự trữ. Bối cảnh rủi ro địa chính trị gia tăng và sự bất ổn vĩ mô, Nguồn cung vàng miếng trong nước còn hạn chế, Tâm lý kỳ vọng giá tiếp tục tăng từ nhà đầu tư đã khuếch đại đà tăng giá trong nước.
Chỉ số giá USD tháng 11 giảm nhẹ 0,09% so với tháng trước; so với cùng kỳ năm 2024, chỉ số giá USD tăng 3,49%; bình quân 11 tháng năm 2025 tăng 3,66% so với cùng kỳ năm trước.
II. VĂN HÓA – XÃ HỘI
1. Tình hình đời sống dân cư
Tình hình đời sống dân cư ổn định và có xu hướng cải thiện rõ rệt, cùng với đà phục hồi tích cực của hoạt động sản xuất, kinh doanh trên địa bàn tỉnh. Thu nhập bình quân của người lao động được đảm bảo và duy trì ổn định, kéo theo nhu cầu tiêu dùng và mua sắm của người dân cũng gia tăng đáng kể. Sản xuất công nghiệp tăng trưởng tích cực, tạo nền tảng vững chắc cho việc làm và thu nhập ổn định. Các doanh nghiệp đã nỗ lực duy trì và mở rộng sản xuất, đảm bảo nguồn thu nhập cho người lao động, đặc biệt là trong các khu công nghiệp. Các chính sách an sinh xã hội, hỗ trợ người lao động gặp khó khăn, cũng như các chương trình bình ổn giá cả thị trường đã được triển khai hiệu quả, góp phần đảm bảo đời sống nhân dân.
2. Văn hóa - xã hội
Trong tháng 11/2025, ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch triển khai kịp thời các chỉ đạo của UBND tỉnh, đồng thời làm tốt công tác tuyên truyền các ngày lễ, kỷ niệm, sự kiện chính trị và tổ chức hiệu quả các hoạt động văn hóa, thể thao, du lịch, báo chí – xuất bản phục vụ nhiệm vụ chính trị và nhu cầu Nhân dân. Ngành đã phối hợp tổ chức thành công các sự kiện lớn, tiêu biểu là Tuần lễ Văn hóa - Thể thao hữu nghị tỉnh Đồng Nai năm 2025 nhằm quảng bá hình ảnh, tiềm năng du lịch của địa phương. Tiếp tục đẩy mạnh thông tin, tuyên truyền về các lĩnh vực văn hóa, gia đình, thể thao và du lịch nhằm chuyển tải kịp thời các quan điểm, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đến người dân. Tập trung vào việc bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống, các giá trị cốt lõi, bản sắc riêng biệt của dân tộc Việt Nam.
Phong trào văn hóa, văn nghệ được tổ chức rộng với 23 buổi biểu diễn và 189 buổi chiếu phim lưu động, phục vụ gần 35.000 lượt người, chủ yếu ở vùng sâu, vùng xa; Tuyên truyền lưu động phục vụ Đại hội Đảng bộ tỉnh và Đại hội Đảng toàn quốc, cùng chương trình “An toàn giao thông – hạnh phúc mọi nhà",
Các hoạt động thể thao phong trào diễn ra sôi nổi, thu hút đông đảo người dân tham gia. Tỉnh đăng cai nhiều giải lớn như Hội thi Thể thao các dân tộc thiểu số toàn quốc khu vực II, Giải Đua thuyền Buồm Vô địch quốc gia, Giải VĐ các VĐV xuất sắc Jujitsu, cùng Giải CLB trung – cao tuổi. Thành tích thể thao đạt nhiều kết quả nổi bật: giành 97 huy chương các loại, trong đó có 02 HCV Vovinam thế giới và 1 HCB quốc tế cầu lông. Nhiều giải thể thao cấp tỉnh và quốc gia được tổ chức thành công.
3. Y tế
Trong tháng 11/2025, công tác kiểm soát dịch bệnh trên địa bàn tỉnh Đồng Nai tiếp tục được duy trì ổn định, hiệu quả. Ngành Y tế đã chủ động theo dõi sát diễn biến dịch tễ và triển khai đồng bộ, kịp thời các biện pháp phòng ngừa các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm như sốt xuất huyết, sởi, tay chân miệng, sốt rét, dại, đậu mùa khỉ, ho gà, uốn ván, viêm não Nhật Bản...
Trong tháng 11/2025, tình hình các bệnh truyền nhiễm trên địa bàn tỉnh được ghi nhận như sau:
Sốt xuất huyết: Ghi nhận 3.201 ca mắc, tăng mạnh 1.648 ca so với cùng kỳ và không có ca tử vong. Tính từ đầu năm đến nay, toàn tỉnh có 19.500 ca mắc, tăng 11.446 ca, tăng 2,42 lần so với cùng kỳ, có 5 ca tử vong.
Tay chân miệng: Ghi nhận 1.226 ca mắc. Lũy kế 11 tháng có 7.583 ca, tăng 1,44 lần so với cùng kỳ.
Sởi: Trong tháng ghi nhận 6 ca mắc, giảm 57,14% so với tháng trước. Tổng số ca mắc trong 11 tháng là 6.525 ca, tăng 4.973 ca so với cùng kỳ, trong đó 03 ca tử vong. Các dịch bệnh khác như: Sốt rét, ho gà, tả, thương hàn, cúm... đều không ghi nhận trường hợp mắc mới trong tháng 11.
Trong tháng 11/2025, công tác phòng, chống HIV/AIDS trên địa bàn tỉnh tiếp tục được quan tâm triển khai thực hiện đồng bộ và hiệu quả. Ngành Y tế tập trung đẩy mạnh các hoạt động tuyên truyền, tư vấn và xét nghiệm sàng lọc trong cộng đồng. Trong tháng ghi nhận 38 trường hợp mắc mới HIV, tăng 13 ca so với tháng trước. Ghi nhận 04 trường hợp tử vong liên quan đến AIDS.
Công tác đảm bảo an toàn thực phẩm trên địa bàn tỉnh Đồng Nai tiếp tục được siết chặt và đạt nhiều kết quả tích cực, trong tháng 11 không xảy ra bất kỳ vụ ngộ độc thực phẩm nào trên toàn tỉnh.
4. Giáo dục
Trong tháng 11/2025, ngành Giáo dục và Đào tạo tỉnh Đồng Nai đã triển khai đồng bộ nhiều giải pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục ở cả hai cấp học mầm non và phổ thông:
Đối với Giáo dục mầm non: Tiếp tục được chú trọng phát triển toàn diện. Trọng tâm công tác là nâng cao chất lượng chuyên môn cho đội ngũ giáo viên, tăng cường hỗ trợ trẻ em vùng khó khăn, phát triển năng lực sáng tạo và chuẩn bị hành trang tốt nhất cho trẻ bước vào lớp 1. Đồng thời khảo sát cơ sở vật chất, quản lý chất lượng và đánh giá kết quả phát triển giáo dục mầm non tiếp tục được thực hiện nhằm hoàn thiện cơ sở dữ liệu, phục vụ hiệu quả cho công tác chỉ đạo, điều hành trong thời gian tới.
Đối với Giáo dục phổ thông: Ngành đã hoàn thiện Hội đồng chuyên môn giáo viên cốt cán, tổ chức các buổi tập huấn chuyên sâu về Chương trình giáo dục phổ thông mới, phương pháp giáo dục STEM, đánh giá năng lực học sinh và ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI) trong dạy học. Công tác tổ chức các kỳ thi cũng được đảm bảo nghiêm túc, bao gồm việc tổ chức phúc khảo kỳ thi chọn học sinh giỏi quốc gia. Thống kê và xây dựng lộ trình phát triển giáo dục phổ thông cho giai đoạn 2026 - 2030.
5. Giải quyết việc làm và đào tạo nghề
Trong tháng, giải quyết việc làm cho 15.251 lượt người. Lũy kế từ đầu năm đến nay toàn tỉnh đã giải quyết việc làm 125.653 lượt người.
Công tác giáo dục nghề nghiệp:
Tuyển sinh đào tạo mới: Trong tháng các cơ sở giáo dục nghề nghiệp trên địa bàn tỉnh đã tuyển mới đào tạo cho 850 học viên. Lũy kế 11 tháng tổng số học viên tuyển mới là 38.998 học viên, đạt 60% kế hoạch năm và giảm 40% so với cùng kỳ.
Học viên tốt nghiệp: Trong tháng các trường và cơ sở giáo dục nghề nghiệp đã cấp bằng/chứng chỉ tốt nghiệp cho 15.279 học viên. Lũy kế 11 tháng, có 45.900 học viên tốt nghiệp, đạt 76,50% so với kế hoạch năm và giảm 22% so với cùng kỳ năm trước.
Info KTXH 11.2025.pdf