Thứ 6 - 26/02/2016
Màu đỏ Màu xanh nước biển Màu vàng Màu xanh lá cây
Tình hình kinh tế xã hội tháng 11 năm 2018

1. Sản xuất công nghiệp

Chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) trên địa bàn tháng 11/2018 tăng 2,43% so tháng trước. Trong đó: khai khoáng tăng 0,96%; công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 2,19%; sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước tăng 6,96%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải giảm 1,46%.

Cộng dồn 11 tháng năm 2018 chỉ số sản xuất công nghiệp tăng 8,89% so cùng kỳ. Trong đó: Khai khoáng tăng 5,59%; nhóm ngành chế biến, chế tạo tăng 9,11%; sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước tăng 5,61%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước tăng 13,85%.

11 tháng năm 2018, tình hình sản xuất công nghiệp trên địa bàn tỉnh tăng trưởng ổn định. Đặc biệt ngành công nghiệp chế biến, chế tạo là ngành chiếm tỷ trọng cao nhất (chiếm trên 90%) ngành công nghiệp luôn tăng cao hơn mức tăng bình quân chung của toàn ngành đã góp phần làm tăng chỉ số sản xuất công nghiệp trên địa bàn tỉnh. Nguyên nhân là do thị trường xuất khẩu sản phẩm công nghiệp chủ lực từ đầu năm đến nay thuận lợi, tạo điều kiện phát triển sản xuất.

Trong các ngành công nghiệp cấp II thì 11 tháng/2018 hầu hết các ngành đều có chỉ số sản xuất công nghiệp tăng so cùng kỳ, chỉ có một ngành giảm (ngành chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ, tre, nứa giảm trên 4%); cụ thể ở một số ngành công nghiệp chủ lực như sau:

Chỉ số sản xuất công nghiệp của ngành khai khoáng tăng 5,59% so cùng kỳ. Do gần đây trữ lượng các mỏ đá giảm dần, việc khai thác cát, đá sắp xếp quản lý chặt chẽ hơn nên sản lượng khai thác tăng trưởng có xu hướng chậm lại.

Chỉ số sản xuất ngành dệt tăng 15,74% so cùng kỳ. Đây là ngành sản xuất phụ trợ của ngành may mặc, hợp đồng sản xuất ổn định do đó duy trì được mức tăng trưởng cao. Bên cạnh đó Dệt may hiện là ngành chủ lực có kim ngạch xuất khẩu lớn thứ 2 của tỉnh, các doanh nghiệp trong lĩnh vực này rất quan tâm đến việc tận dụng các ưu đãi từ hiệp định thương mại tự do (FTA) để tăng sức cạnh tranh và mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm.

Chỉ số sản xuất ngành sản xuất da và các sản phẩm có liên quan 11 tháng tăng 12,61% so cùng kỳ. Là ngành luôn duy trì mức tăng trưởng cao trong toàn ngành công nghiệp, nguyên nhân chủ yếu các doanh nghiệp sản xuất giày da có các hợp đồng xuất khẩu giá trị lớn và ổn định từ các nước thuộc liên minh Châu Âu nên sản lượng sản xuất từ đầu năm đến nay có mức tăng khá cao. Một số công ty có quy mô sản xuất lớn, mức tăng trưởng cao so cùng kỳ như: Công ty Việt Vinh, Taekwang, Pousung, Changshin...

Chỉ số sản xuất ngành sản xuất trang phục tăng 7,55% so cùng kỳ, ngành này có mức tăng ổn định do các doanh nghiệp có các hợp đồng sang các nước Mỹ và EU như công ty TNHH Fiashion Garment 2, công ty TNHH Namyang Sông Mây, công ty May Đồng Tiến...Đây cũng là ngành có quy mô sản xuất lớn trong ngành công nghiệp góp phần tăng trưởng chung của ngành công nghiệp.

Chỉ số sản xuất công nghiệp của ngành sản xuất chế biến thực phẩm tăng 4,77% so cùng kỳ. Ngành này chiếm tỷ trọng lớn nhưng sản xuất 11 tháng tăng không cao do nhu cầu tiêu thụ các sản phẩm thức ăn gia súc gia cầm từ đầu năm đến nay tăng thấp mặc dù đàn heo đang được phục hồi. Bên cạnh đó một số sản phẩm thuộc ngành chế biến thực phẩm gặp khó khăn trong việc tiêu thụ, ký kết hợp đồng mới do đơn giá xuất khẩu năm 2018 giảm so các năm trước, một số khách hàng hợp đồng sản xuất giảm nên đã ảnh hưởng mức tăng chung của ngành chế biến thực phẩm.

Chỉ số sản xuất công nghiệp của ngành sản xuất giường, tủ, bàn, ghế: tăng 6,73% so cùng kỳ. Nguyên nhân do Hiệp định VPA/FLEGT đã được kí vào gần cuối tháng 10 năm 2018, ngành này có thuận lợi những tháng cuối năm, những tháng gần đây sản xuất có xu hướng ổn định hơn.

Ngoài ra, các ngành có quy mô sản xuất lớn vẫn duy trì mức tăng trưởng khá ổn định như: Sản xuất thiết bị điện tăng 8,52%; sản xuất máy móc thiết bị chưa phân vào đâu tăng 7,72%; sản xuất kim loại tăng 10,42%; sản xuất sản phẩm khoáng phi kim loại tăng 5,09%;... do có thị trường tiêu thụ ổn định.

Chỉ số sản xuất công nghiệp của các ngành công nghiệp chủ lực

tháng 11 và 11 tháng năm 2018

 

Chỉ tiêu

Tháng 11/2018 so với (%)

Chỉ số cộng dồn 11T/2018 so cùng kỳ (%)

tháng trước

cùng tháng năm trước

Một số ngành công nghiệp chủ lực

 

 

 

Sản xuất chế biến thực phẩm

103,14

100,36

104,77

Dệt

99,66

116,91

115,74

Sản xuất đồ uống

101,03

138,48

117,65

Sản xuất trang phục

103,70

119,39

107,55

Sản xuất da và các sản phẩm có liên quan

101,70

120,63

112,61

Sản xuất giấy và các sản phẩm từ giấy

104,15

125,10

115,51

Sản xuất hoá chất và sản phẩm hoá chất

104,53

104,20

105,93

Sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic

101,84

103,63

103,17

Sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học

91,68

100,73

113,21

Sản xuất thiết bị điện

109,76

121,52

108,52

Sản xuất giường, tủ, bàn, ghế

107,71

131,66

106,73

 

- Chỉ số sản phẩm công nghiệp: ước tháng 11 năm 2018 tăng so với tháng cùng kỳ năm trước như: vải các loại 69,3 triệu m2, tăng 32,44%; quần áo các loại 14.276 nghìn cái, tăng 31,40%; Gường tủ bàn ghế 1.468 nghìn chiếc, tăng 30,38%; thép dạng thô và bán thành phẩm 56,3 nghìn tấn, tăng 24,97%; giày dép các loại 40,5 triệu đôi, tăng 23,7%; bột ngọt 25,5 nghìn tấn, tăng 18,37%; sợi các loại 104,7 nghìn tấn, tăng 11,53%; nước uống 12,3 triệu m3, tăng 8,94%...

- Chỉ số sản phẩm công nghiệp 11 tháng  năm 2018: các sản phẩm có chỉ số tăng, giảm so cùng kỳ như: Vải các loại (+22,0%); Sợi các loại (+16,09%); Thuốc bảo vệ thực vật (+12,53%); Quần áo các loại (+11,7%); Nước uống (+10,59%); giày dép các loại (+10,25%); cà phê các loại (+6,73%); Đá xây dựng các loại (+5,6%); Thuốc lá sợi (+5,46%); Bao bì các loại (+4,99%)… Các sản phẩm giảm như: Máy giặt (-24,17%); Sơn các loại (-8,01%); Bê tông trộn sẵn (-1,97%).v.v…

- Chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tháng 11/2018 tăng 1,16% so với tháng 10/2018 và tăng 7,72% so với cùng kỳ năm trước. Cộng dồn 11 tháng năm 2018 chỉ số tiêu thụ tăng 6,94%  trong đó một số ngành có chỉ số tiêu thụ tăng so cùng kỳ: Sản xuất giấy và sản phẩm giấy tăng 22,97%; sản xuất đồ uống tăng 15,24%; Dệt tăng 12,09%; sản xuất gường, tủ, bàn ghế tăng 11,23%; sản xuất kim loại tăng 9,54%; sản xuất da và các sản phẩm có liên quan tăng 9,41%; sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn tăng 9,13%; sản xuất thiết bị điện tăng 8,58%; sản xuất máy móc, thiết bị chưa được phân vào đâu tăng 8,34%... Bên cạnh những ngành có chỉ số tiêu thụ tăng có một số ngành giảm như: sản xuất phương tiện vận tải khác giảm 10,93%; sản xuất hóa chất và sản phẩm hóa chất  giảm 3,87%; Sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính giảm 3,76%...

- Chỉ số tồn kho toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tháng 11/2018 tăng 4,17% so với tháng 10/2018 và tăng 12,79% so với cùng thời điểm năm trước. Một số ngành có chỉ số tồn kho tăng, giảm so cùng kỳ như sausản xuất phương tiện vận tải khác (+36,59%); sản xuất kim loại (+35,49%); sản xuất trang phục (+33,47%); sản xuất hóa chất và sản phẩm hóa chất (+27,38%); sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic (+35,37%); sản xuất giấy và các sản phẩm từ giấy (+20,86%); sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác (+20,41%); sản xuất chế biến thực phẩm (+19,04%); sản xuất sản phẩm thuốc lá (+16,85%)... một số ngành giảm là: sản xuất xe có động cơ (-33,91%); sản xuất thiết bị điện (-35,86%); sản xuất điện tử, máy vi tính (-35,15%); sản xuất đồ uống (-26,61%)…

- Chỉ số sử dụng lao động tháng 11/2018 tăng 1,17% so tháng 10/2018 và tăng 4,45% so với cùng kỳ, trong đó: doanh nghiệp nhà nước giảm 7,23%; doanh nghiệp ngoài nhà nước tăng 1,65%; doanh nghiệp đầu tư nước ngoài tăng 4,99%. So cùng kỳ, chỉ số sử dụng lao động 11 tháng/2018 tăng 2,92%, trong đó: ngành khai khoáng tăng 0,45%; công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 3,07%; sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí giảm 11,38%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải giảm 2,49%.

Một số ngành công nghiệp cấp II có chỉ số sử dụng lao động 11 tháng tăng so cùng kỳ là: sản xuất máy móc thiết bị chưa phân vào đâu tăng 20,83%; công nghiệp chế biến, chế tạo khác tăng 15,32%; sản xuất hóa chất tăng 11,34%; sản xuất trang phục tăng 6,72%; sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic tăng 7,23%....

2. Sản xuất Nông - Lâm nghiệp và thủy sản

2.1. Nông nghiệp

a. Cây hàng năm

Tính đến ngày 15 tháng 11 năm 2018, tổng diện tích gieo trồng cây hàng năm vụ Mùa 2018 toàn tỉnh đạt 52.754 ha, giảm 1.644 ha (-3,02%) so với vụ Mùa năm trước. Trong đó:

Cây lúa: diện tích ước đạt 22.881 ha, bằng 96,59%, giảm 808 ha so cùng kỳ năm trước. Hiện nay lúa sinh trưởng và phát triển tốt, các cơ quan chức năng đã tuyên truyền, hướng dẫn nông dân kỹ thuật chăm sóc, phòng trừ sinh vật gây hại trên cây lúa.

Cây hàng năm khác: diện tích cây bắp ước đạt 15.331 ha, bằng 90,61% (-1.590 ha); rau các loại ước đạt 4.996 ha, tăng 4,83% (+230 ha); đậu các loại ước đạt 1.898 ha, bằng 95,05% (-99 ha) so với cùng kỳ.

Tình hình sản xuất cây hàng năm vụ Mùa năm 2018 trên địa bàn tỉnh tương đối thuận lợi, mưa đều nên người dân xuống giống đồng loạt,cây trồng sinh trưởng và phát triển tốt. Hệ thống kênh mương phục vụ tốt cho việc tiêu và thoát nước, nên khả năng không để ngập úng xẩy ra. Người dân đã đầu tư và áp dụng nhiều biện pháp khoa học kỹ thuật trong chăm bón và phòng chống dịch bệnh cây trồng, do vậy dự ước năng suất vụ Mùa năm nay tăng so cùng kỳ.

b. Cây lâu năm

Tổng diện tích cây lâu năm toàn tỉnh hiện có là 178.948,6 ha, tăng 1,09% (+1.927,7 ha) so cùng kỳ. Trong đó cây ăn quả đạt 52.323,8 ha, tăng 1,43% (+735,4 ha), cây công nghiệp lâu năm đạt 126.624,8 ha, tăng 0,95% (+1.192,3 ha) so cùng kỳ.

Trong tháng 11 năm 2018 thời tiết còn mưa nên người dân chủ động xuống một số giống cây lâu năm như: Hồ tiêu, cam bưởi, chuối và thu hoạch một số cây trồng khác, xoài, cam, bưởi, bơ, mãng cầu, cà phê, thanh long, dứa, cao su. Ngoài ra tiếp tục chăm bón, làm cỏ, tỉa cành các loại cây lâu năm khác.

Dự ước sản lượng 11 tháng đầu năm một số cây trồng tăng giảm so cùng kỳ như sau:

Cây ăn quả: Sản lượng xoài ước đạt 85.574,5 tấn, tăng 2,14%; chuối đạt 99.648,8 tấn, tăng 3,45%; bưởi đạt 33.654,1 tấn, tăng 4,07%, chôm chôm đạt 146.408,5 tấn, tăng 3,61% so với cùng kỳ.

Cây công nghiệp lâu năm: Sản lượng điều ước đạt 38.914 tấn, tăng 24,84%; cao su đạt 39.736,9 tấn, tăng 5,87%; hồ tiêu đạt 30.383,39 tấn, tăng 3,63%; cà phê đạt 2.034,77 tấn, tăng 6,69% so cùng kỳ.

Thời tiết giao mùa làm phát sinh dịch bệnh tuy nhiên ở thể nhẹ và không ảnh hưởng nhiều đến năng suất và sản lượng cây trồng.

c. Chăn nuôi

Tình hình chăn nuôi trên địa từ đầu năm đến nay mà đặc biệt là các tháng gần đây có nhiều khởi sắc, thị trường tiêu thụ và giá các sản phẩm chăn nuôi ổn định, thịt heo hơi duy trì mức giá từ 50 đến 53 ngàn đồng/kg; lượng heo, gà hiện nay vẫn đáp ứng tốt nhu cầu thị trường tiêu thụ, dịch bệnh được khống chế tốt. Số lượng đàn heo và gia cầm tăng cao so cùng kỳ, nguyên nhân tăng là do giá tiêu thụ tăng, lượng heo thịt hiện nay gần như ngang bằng với nhu cầu của thị trường, đây là quy luật của thị trường khi cung bằng cầu. Số lượng gia súc, gia cầm trên địa bàn tỉnh tại thời điểm tháng 11/2018 như sau:

 

Đơn vị tính

Chính thức cùng kỳ

Thực hiện kỳ báo cáo

So sánh cùng kỳ (%)

I. Gia súc

Con

2.154.670

2.598.203

120,58

  1. Trâu

Con

2.934

3.030

103,27

  2. Bò

Con

74.668

77.164

103,34

     Tr. đó: Bò sữa

Con

280

277

98,93

  3. Lợn

Con

2.077.068

2.518.009

121,23

II. Gia cầm

1000 con

20.565,83

23.655,86

115,03

    Trong đó: Gà

1000 con

19.463,72

22.245,16

114,29

 

 

-  Số lượng đàn: Tổng đàn gia súc hiện có là 2.598.203 con, tăng 443.533 con (+20,58%) so cùng kỳ. Trong đó trâu đạt 3.030 con tăng 3,27%, bò đạt 77.164 con tăng 3,34%; heo đạt 2.518.009 con, tăng 21,23%. Giá heo hơi trên thị trường liên tục tăng cao nên đã kích thích người chăn nuôi heo phát triển đàn; tổng đàn heo trên địa bàn tỉnh đã lên đến 2,5 triệu con, tăng hơn 400 ngàn con so với cùng kỳ năm trước, số heo tăng nhiều đa số thuộc các trang trại nuôi gia công cho các công ty có vốn đầu tư nước ngoài; Dự báo, nếu giá heo hơi còn giữ ở mức cao thì tổng đàn heo trên địa bàn sẽ còn tiếp tục tăng. Tuy nhiên các ngành chức năng và địa phương cần khuyến cáo người dân và chủ trang trại cân nhắc hợp lý không nên đầu tư lớn, ồ ạt sẽ dẫn tới cung lớn hơn cầu, không tiêu thụ được dẫn tới thua lỗ.

Do thời gian qua giá tiêu thụ gà luôn nằm ở mức hợp lý, tiêu thụ thuận lợi nên các trang trại đã chủ động tăng đàn. Hơn nữa, khoảng 80% tổng đàn gà tại Đồng Nai được nuôi theo hình thức trại tập trung, áp dụng các qui trình an toàn dịch bệnh nên đảm bảo chất lượng sinh trưởng vật nuôi. Hiện nay, một số trang trại nuôi gà thịt đã kết nối được các doanh nghiệp tiêu thụ, tạo thành chuỗi khép kín từ trang trại đến bàn ăn, góp phần thúc đây hoạt động chăn nuôi phát triển. Tổng đàn gia cầm hiện có là 23.655,86 ngàn con, tăng 15,03% so cùng kỳ, trong đó gà đạt 22.245,16 ngàn con, tăng 14,29% so cùng kỳ.

- Sản lượng sản phẩm:  Dự ước sản lượng sản phẩm chăn nuôi gia súc, gia cầm toàn tỉnh 11 tháng tăng, giảm so cùng kỳ như sau: Sản lượng thịt trâu dự ước 236,18 tấn, giảm 13,52 tấn (-5,41%); thịt bò dự ước 5.455,24 tấn, giảm 68,22 tấn (-1,24%); thịt heo 386.544,87 tấn, tăng 18.100,85 tấn (+4,91%) so cùng kỳ; thịt gia cầm 89.489,34 tấn, tăng 3.956,36 tấn (+4,63%) so cùng kỳ. Sản lượng trứng gia cầm đạt 634.510,02 ngàn quả, tăng 29.202,19 ngàn quả (+4,82%) so cùng kỳ.

2.2. Hoạt động Lâm nghiệp

- Công tác trồng và chăm sóc, nuôi dưỡng rừng: Trong tháng 11/2018 vẫn còn mưa nên thuận lợi cho việc trồng rừng, các đơn vị lâm nghiệp đẩy mạnh công tác trồng rừng để đạt kế hoạch năm 2018. Dự ước trong tháng 11 diện tích rừng trồng mới tập trung đạt 22 ha; lũy kế 11 tháng năm 2018 đạt 4.702 ha, tăng 1,93% so cùng kỳ.

Số lượng cây lâm nghiệp trồng phân tán dự ước tháng 11/2018 đạt 2 ha  bằng với tháng cùng kỳ, lũy kế 11 tháng đạt 260 ha, giảm 2,99% so cùng kỳ.

- Khai thác gỗ và lâm sản: Sản lượng gỗ khai thác dự ước tháng 11/2018 đạt 14.789 m3, tăng 0,76% so tháng cùng kỳ; lũy kế 11 tháng đạt 167.554 m, tăng 1,33% so cùng kỳ, nguyên nhân tăng là gỗ nguyên liệu giấy đến thời kỳ khai thác nên sản lượng tăng khá so với cùng kỳ.

- Công tác PCCCR và quản lý bảo vệ rừng: Trong tháng 11 không xảy ra vụ cháy rừng nào, lũy kế 11 tháng xảy ra 4 vụ cháy rừng tại huyện Vĩnh Cửu. Tình hình lâm phận trên toàn tỉnh ổn định, công tác quản lý bảo vệ rừng được duy trì và tăng cường; trên địa bàn tỉnh không xảy ra các vụ vi phạm lớn gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến tài nguyên rừng; các kế hoạch, dự án, đề án, phương án được thực hiện đúng tiến độ, kế hoạch đề ra.

- Công tác kiểm tra kiểm soát và xử lý vi phạm: Qua kiểm tra kiểm soát trong tháng 11/2018 đã phát hiện 20 vụ vi phạm Luật Bảo vệ và Phát triển rừng (tăng 14 vụ so với tháng trước), cụ thể như sau: khai thác rừng trái phép 01 vụ; phá rừng 03 vụ; vận chuyển lâm sản trái pháp luật 02 vụ; vi phạm mua bán, cất giữ chế biến lâm sản trái phép 04 vụ; vi phạm quy định về quản lý bảo vệ động vật hoang dã 01 vụ; vi phạm khác 09 vụ. Lực lượng kiểm lâm đã xử lý 17 vụ vi phạm, tịch thu các cá thể rắn, cheo cheo, vòi hương và mèo rừng; thu nộp ngân sách 266 triệu đồng.

2.3. Lĩnh vực Thủy sản

- Nuôi trồng thủy sản: Diện tích nuôi trồng thủy sản không sử dụng lồng bè, bể bồn hiện có là 9.005,96 ha, tăng 2,48% so với cùng kỳ năm trước (+ 217,96 ha). Do thời tiết thuận lợi và nhu cầu về thực phẩm thủy, hải sản tăng nên người nuôi trồng thủy sản mở rộng thêm diện tích nuôi trồng để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người dân, đặc biệt là dịp Tết Nguyên đán sắp tới.

- Sản lượng thủy sản: Dự ước sản lượng thủy sản trong tháng 11/2018 đạt 7.006,41 tấn; Lũy kế 11 tháng sản lượng thủy sản đạt 55.698,02 tấn, tăng 8,46% so cùng kỳ, trong đó: Cá đạt 49.614,02 tấn tăng 8,68%; tôm đạt 5.504,93 tấn, tăng 4,61%; Thủy sản khác đạt 579,07 tấn, tăng 32,14% so cùng kỳ. Sản lượng cá chiếm 89,07% tổng sản lượng thủy sản, nguyên nhân tăng do nhu cầu tiêu thụ của người dân tăng, khuyến khích nông dân mạnh dạn đầu tư thả những lứa cá mới; Theo thông tin của nông dân nuôi cá nước ngọt, những tháng trở lại đây, giá nhiều loại cá nước ngọt có xu hướng tăng và thị trường tiêu thụ xã hội ổn định. Nắm bắt được tình hình này người nuôi trồng thủy sản đã đầu tư thâm canh tăng năng suất để đạt hiệu quả kinh tế cao.

3. Thương mại, giá cả, vận tải và du lịch

a. Thương mại

Tổng mức bán lẻ hàng hoá và dịch vụ tháng 11/2018 ước đạt 13.885,9 tỷ đồng, tăng 0,85% so tháng trước. Trong đó: Kinh tế nhà nước ước đạt 848,3 tỷ đồng, tăng 0,75%; Kinh tế ngoài nhà nước ước đạt 12.666,3 tỷ đồng, tăng 0,86%; Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài ước đạt 371,3 tỷ đồng, tăng 0,81%.

Dự ước 11 tháng năm 2018 tổng mức bán lẻ hàng hoá và dịch vụ đạt 148.503,5 tỷ đồng, tăng 11,3% so cùng kỳ và đạt 89,8% so kế hoạch năm.

Tổng mức bán lẻ hàng hoá và dịch vụ 11 tháng năm 2018 chia theo thành phần kinh tế:

- Kinh tế nhà nước dự ước đạt 10.153,8 tỷ đồng, chiếm 6,84% và tăng 5,3% so cùng kỳ. Các doanh nghiệp nhà nước hoạt động trong lĩnh vực thương mại dịch vụ SXKD tương đối ổn định, một số ngành kinh doanh tăng trưởng khá. Bên cạnh đó, một số ngành kinh doanh xu hướng chậm lại và giảm so với cùng kỳ. Các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ, kinh doanh ăn uống, khách sạn nhà hàng đều tập trung nguồn hàng, đầu tư, triển khai các chương trình vui chơi giải trí phục vụ người dân.

 - Kinh tế ngoài nhà nước ước đạt 134.547,9 tỷ đồng, chiếm 90,6% và tăng 11,9% so cùng kỳ. Trong đó: Kinh tế tập thể ước đạt 163,4 tỷ đồng, tăng 8,1%; Kinh tế cá thể ước đạt 62.911,3 tỷ đồng, tăng 12,5%; Kinh tế tư nhân ước đạt 71.473,2 tỷ đồng, tăng 11,4% so cùng kỳ. Đây là thành phần kinh tế phát triển mạnh trong các ngành nghề sản xuất kinh doanh, với mạng lưới thương mại, dịch vụ không ngừng tăng lên về số lượng. Giá các mặt hàng tiêu dùng giảm nhẹ ở các nhóm: mặt hàng lương thực, thực phẩm, ga, xăng dầu dẫn đến sức mua trên thị trường tăng.

- Kinh tế có vốn ĐTNN ước đạt 3.801,8 tỷ đồng, chiếm 2,56% và tăng 7,1% so cùng kỳ. Nguyên nhân tổng mức bán lẻ hàng hoá và dịch vụ của khu vực này tăng là do nhu cầu mua sắm hàng hoá phục vụ sinh hoạt tăng, các đơn vị kinh doanh bán lẻ khu vực này chủ yếu là các siêu thị đã được đầu tư mở rộng nâng cao chất lượng hàng hóa và dịch vụ phục vụ tốt cho người tiêu dùng.

Các doanh nghiệp khu vực có vốn ĐTNN kinh doanh dịch vụ, kinh doanh dịch vụ chơi golf nâng cao chất lượng phục vụ thu hút nhiều du khách trong nước và nước ngoài, góp phần làm tăng doanh thu so cùng kỳ.

Tổng mức bán lẻ hàng hoá và dịch vụ 11 tháng năm 2018 chia theo ngành hoạt động:

- Doanh thu bán lẻ hàng hóa 11 tháng đạt 110.240,8 tỷ đồng, tăng 10,96% so cùng kỳ. Một số nhóm ngành chiếm tỷ trọng lớn và tăng khá so cùng kỳ như: Hàng may mặc tăng 15%; Ô tô các loại tăng 15,6%; Gỗ và vật liệu xây dựng tăng 13,3%; Đồ dùng, dụng cụ, trang thiết bị gia đình tăng 12,6%; Phương tiện đi lại trừ ôtô tăng 12,8%; Đá quý, kim loại quý tăng 10,95%; Dịch vụ sửa chữa ô tô, mô tô, xe gắn máy và xe có động cơ tăng 14,7%...

- Doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống 11 tháng đạt 13.259,3 tỷ đồng, tăng 12,46% so cùng kỳ. Trong đó dịch vụ lưu trú đạt 280,8 tỷ đồng, tăng 5,4%; dịch vụ ăn uống đạt 12.978,5 tỷ đồng, tăng 12,6%.

- Doanh thu du lịch lữ hành 11 tháng ước đạt 76,2 tỷ đồng, tăng 9,9% so cùng kỳ. Các hoạt động của ngành du lịch có những chuyển biến tích cực, một số doanh nghiệp kinh doanh du lịch quảng bá, tìm kiếm mở rộng thị trường góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Các hoạt động dịch vụ du lịch ở các khu du lịch, điểm du lịch: Suối Mơ, Giang Điền, Thác Đá Hàn, Khu Du lịch Bửu Long, Vườn Xoài, Bò Cạp Vàng, Núi Chứa Chan... tiếp tục được quan tâm đầu tư về cải tạo cơ sở vật chất kỹ thuật và nâng cao chất lượng dịch vụ để thu hút du khách đến tham quan, vui chơi giải trí góp phần tăng doanh thu dịch vụ.

- Doanh thu dịch vụ khác 11 tháng ước đạt 24.927,2 tỷ đồng, tăng 12,1% so cùng kỳ. Một số ngành dịch vụ tăng khá so cùng kỳ như: Dịch vụ y tế và hoạt động trợ giúp xã hội tăng 12,96%; Dịch vụ giáo dục và đào tạo tăng 11,1%; dịch vụ nghệ thuật, vui chơi giải trí tăng 13,3%; Hoạt động chuyên môn khoa học công nghệ tăng 19,6%.

Tổng mức bán lẻ hàng hóa, dịch vụ 11 tháng năm 2018

Đơn vị tính: Tỷ đồng

 

Kế hoạch 2018

Dự ước 11 tháng 2018

Chính thức 11 tháng 2017

Cơ cấu 11T/2018 (%)

Ước 11 tháng năm 2018 so cùng kỳ

Tổng mức bán lẻ HH, DV

165.400

   148.503

   133.446

  100,00

    111,28

- Nhà nước

    10.154

       9.643

      6,84

    105,30

- Ngoài nhà nước

   134.548

   120.252

    90,60

    111,89

- Khu vực có vốn ĐTNN

       3.802

      3.551

      2,56

    107,06

Phân theo ngành hoạt động

 

 

 

- Thương nghiệp

   110.241

     99.352

    74,23

    110,96

- Khách sạn, nhà hàng

    13.259

     11.791

      8,93

    112,46

- Du lịch, lữ hành

            76

            69

      0,05

    109,87

- Dịch vụ

     24.927

     22.235

    16,79

    112,11

 

b. Giá cả thị trường

Tình hình diễn biến giá cả thị trường trên địa bàn tỉnh tháng 11 tương đối ổn định, giá cả một số mặt hàng có xu hướng giảm như xăng, dầu, gas... do nhà nước điều chỉnh giảm. Chỉ số giá tiêu dùng tháng 11/2018 so với tháng 10/2018 giảm 0,23% (khu vực thành thị giảm 0,24%; nông thôn giảm 0,23%); so với tháng 12 năm 2017 tăng 1,97%; so với tháng 11 /2017 tăng 1,91%; Bình quân 11 tháng so cùng kỳ tăng 2,99%.

Cụ thể ở các nhóm ngành chính như sau:

Nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 0,09% so tháng trước; tăng 3,95% so tháng 12 năm trước và bình quân cùng kỳ tăng 1,82%. Trong đó:

Nhóm lương thực so tháng trước tăng 0,35%; so với tháng 12 năm trước giảm 2,08% và tăng 0,55% so bình quân cùng kỳ.

Nhóm thực phẩm so tháng trước tăng 0,08%; so tháng 12/2017 tăng 6,38% và tăng 2,26% so bình quân cùng kỳ. Trong tháng 11 giá các mặt hàng thịt heo đã giảm; nguyên nhân là do sau thời gian tăng giá mạnh hiện nay giá heo hơi đã ổn định và có xu hướng giảm nhẹ. 

Nhóm đồ uống và thuốc lá tăng 0,05% so tháng trước; tăng 0,08% so tháng 12/2017 và giảm 0,11% so bình quân cùng kỳ.

Nhóm may mặc, mũ nón, giày dép giảm 0,47% so tháng trước; tăng 3,19% so tháng 12/2017 và tăng 3,13% so bình quân cùng kỳ.

Nhóm nhà ở, điện, nước, chất đốt và VLXD giảm 0,74% so tháng trước; giảm 0,52% so tháng 12/2017 và tăng 1,07% so bình quân cùng kỳ. Trong đó điện tăng 0,57%; nước tăng 0,47% so tháng trước. Tháng 11 là tháng bắt đầu vào mùa nắng nóng nên nhu cầu sử dụng điện và nước sạch của người dân tăng cao. Nhóm gas và các loại chất đốt khác giảm 10,66% so tháng trước. Trong tháng giá dầu hỏa; giá gas giảm mạnh do ảnh hưởng của giá thế giới giảm; giá dầu hỏa giảm 1,03%; giá gas giảm 10,84%. Các mặt hàng VLXD như sắt, thép, xi măng tăng nhẹ do chi phí vận chuyển và nhu cầu xây dựng tăng.

Nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,03% so tháng trước; tăng 0,43% so tháng 12/2017 và tăng 0,97% so bình quân cùng kỳ. Do nhu cầu mua sắm các mặt hàng thiết yếu của người dân tăng nên giá các mặt hàng của nhóm này cũng tăng lên đáng kể.

Nhóm thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,02% so tháng trước, giảm 4,87% so tháng 12/2017 và tăng 17,56% so bình quân cùng kỳ.

Nhóm giao thông giảm 2,03% so tháng trước; tăng 5,69% so tháng 12 năm trước và tăng 8,3% so bình quân cùng kỳ. Trong tháng giá các mặt hàng xăng, dầu giảm do ảnh hưởng của giá xăng, dầu thế giới.

Các nhóm còn lại có chỉ số giá tăng, giảm không nhiều, so tháng trước nhóm bưu chính viễn thông giảm 0,01%, nhóm giáo dục không tăng không giảm, nhóm văn hóa giải trí và du lịch giảm 0,06%, nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tăng 0,17%.

* Chỉ số giá vàng tháng 11/2018 so với tháng trước tăng 0,67%; so với tháng 12 năm trước giảm 1,39%; bình quân cùng kỳ tăng 3,3%.

* Chỉ số giá đô la Mỹ tháng 11/2018, giảm 0,06% so tháng trước; tăng 2,04% so với tháng 12 năm trước; bình quân cùng kỳ tăng 0,88%.

c. Xuất, nhập khẩu hàng hóa

* Xuất khẩu: Dự ước kim ngạch xuất khẩu tháng 11 năm 2018 trên địa bàn đạt 1.599,2 triệu USD, tăng 6,74% so tháng trước. Nguyên nhân tăng so tháng trước là do tháng gần cuối của năm nên các doanh nghiệp sản xuất gấp rút hoàn thành các đơn hàng nhằm kịp thời gian xuất khẩu theo các hợp đồng đã ký kết trong năm.

 Dự ước 11 tháng kim ngạch xuất khẩu đạt 16.773,6 triệu USD, tăng 10,7% so cùng kỳ. Trong đó: Kinh tế nhà nước đạt 205,7 triệu USD, tăng 6,9%; Kinh tế ngoài nhà nước đạt 2.276,5 triệu USD, tăng 19,5%; Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đạt 14.291,5 triệu USD, tăng 9,5%. Kim ngạch xuất khẩu 11 tháng đạt mức tăng trưởng cao ở hầu hết các mặt hàng, nhóm hàng công nghiệp vẫn là nhóm hàng xuất khẩu chủ lực, với mức tăng trưởng được duy trì từ 5.2% đến 16,3% so cùng kỳ. Cụ thể ở một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực tăng như: Giày dép đạt 3.315 triệu USD, tăng 13,2%; Dệt may đạt 1.784,8 triệu USD, tăng 11,7%; sản phẩm gỗ đạt 1.250,5 triệu USD, tăng 13,6%; Máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện đạt 619,4 triệu USD, tăng 14,3%; Máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng đạt 1.252,7 triệu USD, tăng 14,3%; Xơ, sợi dệt đạt 1.440,6 triệu USD, tăng 12,5%; Sản phẩm từ thép đạt 656,6 triệu USD, tăng 16,3%… so cùng kỳ. Bên cạnh đó giá xuất khẩu các mặt hàng nông sản như cà phê, hạt tiêu, cao su, hạt điều giá xuất khẩu tiếp tục có xu hướng giảm do sản lượng dự trữ trên thế giới dồi dào; do ảnh hưởng của tình hình thế giới đặc biệt là cuộc chiến thương mại giữa Trung Quốc và Mỹ làm cho giá của các mặt hàng này giảm như: giá cà phê giảm 25,4%; hạt điều giá đang ở mức 8.055 USD/tấn, giảm 20,8%; giá hạt tiêu vẫn là mặt hàng giảm mạnh nhất hiện chỉ còn 2.971 USD/tấn, giảm 42,3% so cùng kỳ.

Về thị trường xuất khẩu: 11 tháng năm 2018 chủ yếu tập trung vào thị trường chủ lực như: Mỹ đạt 3.843 triệu USD, chiếm 22,9% tổng kim ngạch xuất khẩu; Trung Quốc đạt 1.688 triệu USD, chiếm 10,1%; Nhật Bản đạt 1.467 triệu USD, chiếm 8,7%... Các thị trường khác cũng có kim ngạch xuất khẩu khá cao như: Đài Loan, Hàn Quốc, Đức, Bỉ, Nga…

* Nhập khẩu: Ước kim ngạch nhập khẩu tháng 11 năm 2018 đạt 1.455,6 triệu USD, tăng 4,4% so tháng trước. Dự ước 11 tháng đạt 14.620,7 triệu USD, tăng 10,54% so cùng kỳ. Trong đó: Kinh tế nhà nước đạt 106,8 triệu USD, tăng 12,4%; Kinh tế ngoài nhà nước đạt 2.041,4 triệu USD, tăng 20,2%; Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đạt 12.472,4 triệu USD, tăng 9,1%.

Tình hình nhập khẩu ở một số mặt hàng 11 tháng/2018 như sau:

- Nguyên liệu sản xuất thức ăn gia súc, gia cầm: Ước 11 tháng đạt 775 triệu USD, tăng 33,6% so cùng kỳ. Nguyên nhân là do tình hình chăn nuôi heo trong nước đang có xu hướng phục hồi; nhu cầu sử dụng thức ăn gia súc trong chăn nuôi ngày càng cao nên các doanh nghiệp tập trung nhập nguyên liệu để sản xuất.  

- Chất dẻo nguyên liệu: Ước kim ngạch nhập khẩu 11 tháng năm 2018 đạt 722 ngàn tấn, so với cùng kỳ tăng 0,25% về lượng và tăng 25,28% về giá trị, giá nhập khẩu chất dẻo nguyên liệu đang ở mức 1.899 (USD/tấn) tăng 9,14% so với cùng kỳ.

- Bông các loại: Ước kim ngạch nhập khẩu 11 tháng năm 2018 đạt 354 ngàn tấn, so với cùng kỳ tăng 20,34% về lượng và tăng 27,32% về giá trị.

- Xơ, sợi dệt các loại: ước kim ngạch nhập khẩu 11 tháng đạt 204 ngàn tấn, tăng 11% về lượng và tăng 26% về trị giá. Nguyên nhân là do hiện nay cuộc chiến thương mại giữa Mỹ và trung Quốc vẫn ngày càng cao làm cho việc sản xuất các nguyên liệu này từ Trung Quốc giảm mạnh. Bên cạnh đó nhu cầu sử dụng nguyên vật liệu bông; xơm dệt sợi trong sản xuất tăng cao làm cho giá thành nhập khẩu các mặt hàng này tăng. Hiện nay giá mặt hàng xơ, sợi ở mức 2.534 USD/tấn, tăng 19,4% so với cùng kỳ.

- Máy móc, thiết bị 11 tháng năm 2018 ước đạt 1.544 triệu USD, tăng 6,7% và chiếm 10,6% tổng kim ngạch nhập khẩu.

- Chất dẻo nguyên liệu 11 tháng ước đạt 1.367 triệu USD, tăng 25,3% về giá trị, chiếm 9,4% tổng kim ngạch nhập khẩu.

Kim ngạch xuất nhập khẩu tháng 11 và 11 tháng 2018

 

 

Ước thực hiện

(Triệu USD)

So sánh

(%)

Tháng 11/

2018

11 tháng/

2018

Tháng trước

Cùng kỳ

1. Kim ngạch xuất khẩu

   1.599,16

   16.773,62

   106,74

110,71

Nhà nước

         18,95

         205,68

    103,76

106,92

Ngoài nhà nước

       228,69

       2.276,47

    103,36

119,52

Đầu tư nước ngoài

    1.351,53

     14.291,47

    107,37

109,48

2. Kim ngạch nhập khẩu

   1.455,57

   14.620,67

104,40

110,54

Nhà nước

           9,49

         106,81

101,31

112,38

Ngoài nhà nước

       203,80

       2.041,45

102,81

120,21

Đầu tư nước ngoài

    1.242,29

     12.472,41

104,68

109,09

 

d. Giao thông vận tải

- Vận chuyển hàng hóa:  Ước sản lượng vận chuyển hàng hóa tháng 11 đạt 4.507,9 ngàn tấn, tăng 0,31%; luân chuyển hàng hóa đạt 302.513 ngàn tấn.km, tăng 0,33% so tháng trước. Ước 11 tháng vận chuyển hàng hóa đạt 49.079 ngàn tấn, tăng 5,91%; luân chuyển đạt 3.301.588 ngàn tấn.km, tăng 5,98% so cùng kỳ. Trong đó: Đường bộ đạt 47.749 ngàn tấn vận chuyển, tăng 6% và 3.074.548 ngàn tấn.km luân chuyển, tăng 6,21%; đường sông đạt 1.330,1 ngàn tấn vận chuyển, tăng 2,77% và 227.040 ngàn tấn.km luân chuyển, tăng 2,93%.

Ước doanh thu vận tải hàng hóa tháng 11 đạt 541,3 tỷ đồng, tăng 0,62% so  tháng trước. Dự ước 11 tháng đạt 5.362,1 tỷ đồng, tăng 11,47% so cùng kỳ.

- Vận chuyển hành khách: Ước sản lượng vận tải hành khách tháng 11/2018 đạt 8.726,8 ngàn hành khách, tăng 0,43%; luân chuyển đạt 552.431 ngàn hành khách.km, tăng 0,4% so tháng trước. Ước 11 tháng vận chuyển đạt 94.985,1 ngàn hành khách, tăng 5,99%; luân chuyển hành khách đạt 6.061.086 ngàn hành khách.km, tăng 6,03% so cùng kỳ. Trong đó: Đường bộ đạt 92.369,7 ngàn hành khách vận chuyển, tăng 6,11% và 6.059.194 ngàn hành khách.km luân chuyển, tăng 6,03%; đường sông đạt 2.615,3 ngàn hành khách vận chuyển, tăng 1,95% và 1.892 ngàn hành khách.km luân chuyển, tăng 2,7%.

Ước doanh thu vận tải hành khách tháng 11 đạt 245,1 tỷ đồng, tăng 0,55% so tháng trước. Ước 11 tháng đạt 2.482,7 tỷ đồng, tăng 12,3% so cùng kỳ.

- Doanh thu hoạt động kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải tháng 11 đạt 397,3 tỷ đồng, tăng 1,33% so tháng trước. Dự ước 11 tháng đạt 4.434,1 tỷ đồng, tăng 22,65% so cùng kỳ.

- Khối lượng hàng hóa thông qua cảng tháng 11 đạt 676,3 ngàn tấn, tăng 1,2% so tháng trước, trong đó: Hàng nhập khẩu đạt 201 ngàn tấn, hàng xuất khẩu 251,9 ngàn tấn, hàng  nội địa 223,4 ngàn tấn. Ước 11 tháng sản lượng đạt 6.721,6 ngàn tấn, so cùng kỳ tăng 7,64%.

4. Đầu tư phát triển

Dự ước tháng 11 năm 2018 vốn đầu tư phát triển bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước do địa phương quản lý đạt 955 tỷ đồng, tăng 8,7% so tháng trước. Ước 11 tháng thực hiện 6.105,9 tỷ đồng, tăng 23,3% so cùng kỳ và bằng 84,3% so kế hoạch năm 2018. Tình hình thực hiện như sau:

- Vốn ngân sách nhà nước cấp tỉnh quản lý:

Ước tháng 11 năm 2018 thực hiện 530,4 tỷ đồng, tăng 10,1% so với tháng trước. Dự ước 11 tháng năm 2018 thực hiện 3.867,9 tỷ đồng, tăng 16,1% so cùng kỳ và đạt 92,2% so kế hoạch năm 2018.

Một số dự án trọng điểm:

- Dự án đầu tư thí điểm trường học tiên tiến hiện đại tỉnh Đồng Nai giai đoạn 2016 – 2020. Dự ước khối lượng thực hiện tháng 11/2018 là 8 tỷ đồng, tính đến thời điểm hiện nay tất cả trang thiết bị theo hợp đồng công trình đã được tập kết khoảng 90%. Dự kiến trong quý 4 sẽ cung cấp và hoàn thành lắp đặt thiết bị theo hợp đồng.     

- Dự án Đường kết nối vào cảng Phước An (đoạn từ đường 319 đến nút giao cắt với đường cao tốc Bến Lức – Long Thành), huyện Nhơn Trạch. Khối lượng thực hiện trong tháng 11/2018 là 720 triệu đồng.

- Dự án xây dựng mới Cơ sở điều trị cai nghiện ma túy tỉnh Đồng Nai. Vốn kế hoạch năm 2018 cho dự án là: 40 tỷ đồng. Dự án đã được duyệt kết quả lựa chọn nhà thầu, hiện đã ký hợp đồng thực hiện gói thầu tư vấn thiết kế bản vẽ thi công dự toán công trình. Khối lượng thực hiện trong tháng 11/2018 là 1,3 tỷ đồng. Dự kiến trong tháng 11 tiến hành khởi công.

- Dự án Xây dựng mới tuyến đường nối Hương lộ 10 đoạn từ ranh giới huyện Cẩm Mỹ và huyện Long Thành đến vị trí giao với ĐT 769. Tổng vốn đầu tư 357 tỷ đồng, tuyến đường dài 11.290m, mặt đường rộng 11m (bao gồm lề đường. Khối lượng thực hiện trong tháng 11/2018 là 4,2 tỷ đồng. Hiện tại nhà thầu tiếp tục thi công đoạn từ km13 – km22.

*  Các dự án khác như: Dự án chống ngập suối Tân Mai với tổng kinh phí đầu tư trên 45 tỷ đồng công trình đang được đẩy nhanh tiến độ. Dự ước tháng 11/2018 thực hiện 3,5 tỷ đồng; Dự án nạo vét cải tạo suối Linh với kinh phí 36 tỷ đồng. Hiện tại nhà thầu đang tiến hành nạo vét bùn, rác và đất đá tiến hành kè bê tông hai bên bờ suối. Dự ước tháng 11/2018 thực hiện 1 tỷ đồng; Dự án xây dựng trường tiểu học An Phước huyện Long Thành dự ước thực hiện tháng 11/2018 là 1,7 tỷ đồng.

- Nguồn vốn ngân sách nhà nước do cấp huyện quản lý:

Dự ước tháng 11 năm 2018 thực hiện 366,87  tỷ đồng, tăng 7,7% so tháng trước. Dự ước 11 tháng năm 2018 thực hiện 1.851,9 tỷ đồng, tăng 44,7% so cùng kỳ và bằng 70,2% so kế hoạch năm 2018. Tình hình thực hiện các công trình như sau: Dự án xây dựng trường mầm non Thống Nhất (TP.Biên Hòa) dự kiến tháng 11/2018 thực hiện 2,9 tỷ đồng; Dự án xây dựng trung tâm dịch vụ hành chính công (TP.Biên Hòa) dự kiến tháng 11/2018 thực hiện 16,9 tỷ đồng; Dự án xây dựng trường trung học cơ sở Nhơn Tịnh dự kiến tháng 11/2018 thực hiện 2,1 tỷ đồng.

- Nguồn vốn ngân sách Nhà Nước do cấp xã quản lý:

Dự ước tháng 11 năm 2018 thực hiện 58,17 tỷ đồng, tăng 3,1% so tháng trước. Dự ước 11 tháng năm 2018 thực hiện 386 tỷ đồng, tăng 13,2% so cùng kỳ, bằng 93% kế hoạch năm 2018.

Nhìn chung tình hình thực hiện vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước do địa phương quản lý 11 tháng năm 2018 tương đối thuận lợi nhưng còn gặp những khó khăn nhất định, nguyên nhân là do tình hình giải ngân còn tương đối chậm, bên cạnh đó trong công tác đền bù, giải tỏa, giải phóng mặt bằng còn nhiều vướng mắc, công tác giải ngân ở các công trình xây dựng cơ bản còn chậm. Nên ảnh hưởng không nhỏ đến tiến độ thi công của các dự án.

5. Thu hút đầu tư

Tính từ đầu năm đến ngày 22/11/2018 Tổng vốn đăng ký cấp mới và dự án tăng vốn đầu tư nước ngoài là 1.767,25 triệu USD, đạt 176,7% so kế hoạch năm, bằng 95,7% so cùng kỳ; trong đó cấp mới 109 dự án với tổng vốn đăng ký 946 triệu USD, tăng 29,7% so cùng kỳ và 87 dự án tăng vốn với số vốn bổ sung 789,4 triệu USD, tăng 5,15% so cùng kỳ.

- Phát triển doanh nghiệp dân doanh: từ đầu năm đến ngày 15/11/2018 tổng vốn đăng ký thành lập mới và bổ sung tăng vốn là: 37.513 tỷ đồng, bằng 90,3% so với cùng kỳ (năm 2017 là 41.527,6 tỷ đồng). Trong đó số đăng ký thành lập mới là 3.106 doanh nghiệp với số vốn đăng ký là 26.772 tỷ đồng và 475 lượt doanh nghiệp đăng ký tăng vốn với vốn đăng ký bổ sung là 10.741 tỷ đồng.

Tiếp tục triển khai thực hiện đăng ký doanh nghiệp qua mạng và trả kết quả tại nhà: Tính từ ngày 01/01/2018 đến ngày 15/11/2018 đã có 8.569 lượt doanh nghiệp đăng ký trên cổng thông tin đăng ký doanh nghiệp quốc gia 1.120 doanh nghiệp đăng ký trả kết quả tại nhà.

Triển khai thực hiện đề án hỗ trợ doanh nghiệp: Từ đầu năm đến ngày  15/11/2018 thực hiện hỗ trợ, soạn thảo được 774 hồ sơ đăng ký doanh nghiệp, thông báo sử dụng mẫu dấu và đăng tải trên hệ thống thông tin đăng ký doanh nghiệp quốc gia cho các cá nhân, doanh nghiệp có đề nghị.

Về tình hình giải thể doanh nghiệp: 11 tháng có 248 doanh nghiệp giải thể với số vốn 2.127 tỷ đồng và 236 Chi nhánh, địa điểm kinh doanh và văn phòng đại diện chấm dứt hoạt động. Các doanh nghiệp này, chủ yếu là doanh nghiệp nhỏ và vừa và thuộc khu vực kinh tế tư nhân chủ yếu là do kinh doanh không hiệu quả.

6. Tài chính – Ngân hàng

Dự ước tổng thu ngân sách năm 2018 đạt 50.707 tỷ đồng, đạt 94% so dự toán. Trong đó: Thu nội địa 33.707 tỷ đồng, đạt 88% so dự toán; Thu từ hoạt động xuất nhập khẩu 17.000 tỷ đồng, đạt 110% so dự toán, tăng 12% so cùng kỳ

Dự ước tổng chi ngân sách địa phương năm 2018 ước đạt 22.398 tỷ đồng, đạt 105% so dự toán. Trong đó: Chi đầu tư phát triển là 9.412 tỷ đồng, đạt 130% so dự toán; Chi thường xuyên 12.009 tỷ đồng, đạt 99% dự toán, tăng 7% so cùng kỳ. Chi thường xuyên cơ bản đáp ứng kịp thời, đầy đủ kinh phí cho hoạt động của các cơ quan, đơn vị, đảm bảo kinh phí thực hiện các chính sách an sinh xã hội, chi ngân sách đúng tiêu chuẩn, định mức và đảm bảo trong dự toán được HĐND tỉnh giao.

b. Hoạt động ngân hàng

Ngành ngân hàng Đồng Nai tiếp tục chủ động triển khai thực hiện tốt các chủ trương chính sách, chỉ đạo của Chính phủ để hoàn thành mục tiêu nhiệm vụ đề ra. Tình hình hoạt động của các tổ chức tín dụng (TCTD) trên địa bàn tương đối ổn định và phát triển. Tập trung ưu tiên vốn, mở rộng tín dụng cho vay khách hàng, nhất là các khách hàng thuộc các lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, xuất khẩu, công nghiệp hỗ trợ, doanh nghiệp nhỏ và vừa; Hạn chế và kiểm soát chặt chẽ mức độ tập trung tín dụng, hạn mức kinh tế, hạn chế nợ xấu mới phát sinh.

Dự ước tổng nguồn vốn huy động của các TCTD trên địa bàn đến 31/12/2018 đạt 180.314 tỷ đồng, tăng 9,01% so với 31/12/2017. Trong đó: Tiền gửi bằng đồng Việt Nam ước đạt 167.244 tỷ đồng, tăng 12,65%; Tiền gửi bằng ngoại tệ ước đạt 11.350 tỷ đồng, giảm 24,15%. Tiền gửi ngoại tệ giảm do sự ổn định của tiền Việt Nam đồng và lãi suất tiền gửi USD bằng 0%.

Đến 31/12/2018 tổng dư nợ cấp tín dụng trên địa bàn ước đạt 191.339 tỷ đồng, tăng 19,82% so với đầu năm (trong đó nợ xấu ước chiếm 1,1% trên tổng dư nợ cho vay). Dư nợ cấp tín dụng bao gồm:

- Giá trị các khoản đầu tư trái phiếu doanh nghiệp ước đạt: 3.230 tỷ đồng..

- Tổng dư nợ cho vay ước đạt: 188.109 tỷ đồng, tăng 20,19% so đầu năm. Dư nợ cho vay tăng khá cao do các ngân hàng thương mại trên địa bàn đã tích cực chủ động tăng trưởng tín dụng, chủ yếu cho vay đối với các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh và xuất nhập khẩu trên địa bàn.

7. Một số tình hình xã hội

a. Văn hóa thông tin

Trong tháng 11 năm 2018, ngành VHTTDL đã chỉ đạo các đơn vị trực thuộc triển khai kế hoạch tuyên truyền các sự kiện chính trị trọng đại của đất nước như: Đại hội TDTT tỉnh Đồng Nai năm 2018; Hội nghị tổng kết 10 năm thi hành Luật Phòng, chống bạo lực gia đình giai đoạn 2008 - 2018; Tuyên truyền biển đảo Việt Nam giai đoạn 2018 - 2020…; thực hiện treo 350 lá cờ phướn, 25,6m2 phông sân khấu, 70m2 băng rôn. Phục vụ trang trí tổng thể và dự chào mừng lễ kỷ niệm 320 năm Biên Hòa - Đồng Nai hình thành và phát triển (1698 - 2018).

Hoạt động biểu diễn nghệ thuật tiếp tục thực hiện vai trò nhiệm vụ được Đảng, Nhà nước giao, trong tháng đoàn Ca múa nhạc Đồng Nai, Nhà hát Nghệ thuật truyền thống thực hiện các buổi biểu diễn phục vụ các sự kiện chính trị như: Lễ kỷ niệm 65 năm Quốc Khánh Vương Quốc Campuchia (09/11/1953- 09/11/2018); Lễ khai mạc, bế mạc Hội thao ngành Thanh tra lần thứ IX năm 2018; Lễ kỷ niệm 20 năm ngày thành lập CĐVC tỉnh Đồng Nai (25/11/1998- 25/11/2018); Đại hội Nữ trí thức Đồng Nai lần thứ II;...

Trong tháng 11, Tiếp tục thực hiện nhiệm vụ tổ chức chiếu phim, tuyên truyền và phục vụ các nhiệm vụ chính trị; tổ chức 08 đội chiếu phim lưu động phục vụ các xã nông thôn mới, phục vụ nhân dân vùng sâu, vùng xa và phục vụ công nhân các khu công nghiệp trong tỉnh. Kết hợp nội dung tuyên truyền các sự kiện quan trọng: kỷ niệm 320 năm Biên Hòa - Đồng Nai hình thành và phát triển (1698 - 2018); kỷ niệm 88 năm Ngày thành lập Mặt trận Dân tộc Thống nhất Việt Nam (18/11/1930 - 18/11/2018);…Kết quả 7 đội chiếu phim lưu động phục vụ vùng sâu, vùng xa 161 buổi với 40.088 lượt người; Đội chiếu phim số 8 phục vụ công nhân 23 buổi; 7.890 lượt người xem.

Công tác bảo tồn, bảo tàng: Thực hiện triển lãm chuyên đề Nữ Lực lượng vũ trang Đồng Nai - 74 năm chung bước quân hành” chào mừng kỷ niệm 74 năm ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam (22/12/1944 -22/12/2018), 72 năm ngày Truyền thống Lực lượng vũ trang tỉnh Đồng Nai (15/5/1946 - 15/5/2018 và triển lãm chuyên đề Biên Hòa - Đồng Nai xưa và nay” nhân kỷ niệm 320 năm Biên Hòa - Đồng Nai. Mở cửa phòng triển lãm, phòng trưng bày phục vụ các đoàn khách tham quan trong và ngoài nước, các đoàn học sinh, sinh viên đến nghiên cứu và học tập. Trong tháng, Bảo tàng đón khoảng 3.000 lượt khách đến tham quan, học tập.

b. Thể dục, thể thao     

Trong tháng 11, Trung tâm Huấn luyện và Thi đấu Thể dục thể thao đã tổ chức 03 giải trong khuôn khổ Đại hội TDTT cấp tỉnh: Giải vô địch Bơi, giải Cầu lông, Giải đua xe đạp. Đồng thời tổ chức 02 giải cấp tỉnh, gồm: Giải Cúp Taekwondo các CLB mở rộng tỉnh Đồng Nai, Giải Bóng Rổ các câu lạc bộ tỉnh Đồng Nai mở rộng năm 2018.

Tham gia 01 giải quốc tế (Giải Vô địch Vovinam Châu Á năm 2018 tại Indonesia, đạt 01 HCV); 05 giải quốc gia (đạt 02 HCV, 03 HCB, 02 HCĐ) và 02 giải cụm, khu vực (đạt 06 HCV, 06 HCB, 05 HCĐ)

c. Giáo dục, đào tạo

Giáo dục mầm non: Tổ chức lớp tập huấn cho cán bộ quản lý – giáo viên mầm non ngoài công lập về công tác chăm sóc sức khỏe, chăm sóc dinh dưỡng, bảo đảm an toàn cho trẻ trong trường Mầm non. Trong đó kiểm tra tình hình tổ chức cho trẻ uống “Sữa học đường” tại các cơ sở giáo dục mầm non.

Tổ chức hội thảo chuyên môn và họp Ban hướng dẫn nghiệp vụ cấp tỉnh lần 1 tại Trường Mầm non Long Thành và Huyện Tân Phú; Xây dựng kế hoạch và triển khai tổ chức hội thi “Xây dựng trường Mầm non lấy trẻ làm trung tâm” cấp huyện, tỉnh, bộ.

- Công tác giáo dục tiểu học: Tiếp tục kiểm tra việc triển khai thực hiện nhiệm vụ giáo dục tiểu học năm học 2017-2018 về Đổi mới phương pháp dạy học phát huy tính tích cực học sinh.

Kế hoạch phát triển trường học, dạy học theo Mô hình VNEN tại các trường trong Dự án và trường mở rộng; việc thực hiện đề án Sữa học đường; vệ sinh trường lớp.v.v…) tại các trường tiểu học thuộc huyện Thống Nhất, Cẩm Mỹ và Định Quán.

- Công tác giáo dục trung học – giáo dục thường xuyên:

Tổ chức tập huấn theo Cụm cho giáo viên THPT về các phương pháp và kĩ thuật dạy học theo nhóm và hướng dẫn học sinh tự học của tất cả các trường THPT, TT.GDTX và các cơ sở có dạy văn hóa khối THPT.

Phối hợp phòng Tổ chức cán bộ kiểm tra cấp phép trung tâm ngoại ngữ trên địa bàn; Triển khai thí điểm và tổ chức tham quan mô hình giáo dục STEM tại Vũng Tàu.

Tổ chức Hội thảo đánh giá tình hình thực hiện công tác xây dựng trường đạt chuẩn quốc gia giai đoạn 2015 – 2020 trên địa bàn tỉnh Đồng Nai. Tham mưu hướng dẫn sơ kết học kỳ I và tổ chức kiểm tra học kỳ I đối với cấp Trung học.

Tổ chức Hội nghị chuyên môn môn Tiếng Anh gồm các tỉnh: Đồng Nai, Bến Tre, Tây Ninh, Kiên Giang… về đổi mới phương pháp dạy học và tổ chức dạy học Tiếng Anh nhằm phát triển năng lực của học sinh, tại trường THPT Trấn Biên, TP. Biên Hòa.

e. Y tế

Theo báo cáo của ngành Y tế, trong tháng 11 năm 2018 dịch bệnh xảy ra trong toàn tỉnh như sau:

Sốt xuất huyết: 1.397 ca, tăng 421 ca (+43,14%) so tháng trước. Số trường hợp mắc giảm ở 04/11 huyện (Định Quán, Vĩnh Cửu, Thống Nhất, Tân Phú); số trường hợp mắc tăng ở các địa phương còn lại, trong đó tăng nhiều nhất ở huyện Nhơn Trạch.

Hoạt động xử lý ổ dịch: Tổng số ổ dịch sốt xuất huyết Dengue được xác định và xử lý trong tháng 11/2018 là 198/206 ổ dịch đạt 96%. Cộng dồn đến hết tháng 11/2018 có 1.150 ổ dịch được xử lý/1.159 ổ dịch phát hiện, đạt 99,2%.

Trong tháng thực hiện giám sát công tác tổng vệ sinh môi trường–Chiến dịch diệt lăng quăng vòng 4 tại các địa phương: huyện Xuân Lộc, Cẩm Mỹ, Long Thành, Nhơn Trạch; Tân Phú và Định Quán. Ngành y tế tổ chức phân bổ, cấp phát vật tư chiến dịch; Giám sát phun hóa chất diện rộng tại các địa phương: huyện Vĩnh Cửu, Xuân Lộc, Nhơn Trạch và thành phố Biên Hòa.

- Sởi: 215 ca, tăng 106 ca (+1.97 lần) so tháng trước. Ngành y tế tổ chức Tiêm vét vắc xin sởi cho trẻ từ 9 - 17 tháng tuổi và Sởi – Rubella cho toàn bộ trẻ có độ tuổi từ 18 - 60 tháng tuổi trên 171 xã/phường/thị trấn trên toàn tỉnh; Tiêm vắc xin phòng sởi –Rubella cho nhân viên y tế trực tiếp tham gia điều trị, phòng, chống dịch bệnh Sởi tại các cơ sở y tế được xác định chưa được tiêm phòng vắc xin Sởi – Rubella.

- Sốt rét: 2 ca, giảm 3 ca (-60%) so tháng trước. Cấp phát thuốc, vật tư xét nghiệm, test chẩn đoán cho các Trung tâm Y tế, Bệnh viện tuyến tỉnh, huyện; thực hiện công tác giám sát dịch tễ định kỳ tại xã Hiếu Liêm – huyện Vĩnh Cửu và xã Thanh Sơn-huyện Định Quán; điều tra trường hợp bệnh mắc sốt rét ngoài cộng đồng.

- Hội chứng tay chân miệng: 3.280 ca, tăng 724 ca (+1,28 lần) so tháng trước. Đến tháng 11/2018 đã triển khai thực hiện khử trùng đợt 1 tại 1.115 trường mầm non trên địa bàn với 2.307 kg Cloramin B. Trong tháng thực hiện giám sát công tác xử lý ổ dịch Tay chân miệng tại huyện Nhơn Trạch, Long Thành.

Tình hình vệ sinh an toàn thực phẩm: Trong tháng trên địa bàn tỉnh xảy ra 2 vụ ngộ độc thực phẩm với 46 người mắc, không có trường hợp mắc bị tử vong.

Công tác kiểm tra, thanh tra vệ sinh an toàn thực phẩm: Trong tháng ngành Y tế đã tổ chức được 1.733 lượt kiểm tra, thanh tra cơ sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm trên địa bàn tỉnh; số cơ sở đạt chuẩn có 1.571 cơ sở, trong đó: có 162 cơ sở vi phạm (cảnh cáo, nhắc nhở 158 cơ sở, phạt tiền 4 cơ sở với số tiền 7 triệu đồng). Xây dựng xã mô hình điểm tuyến xã về thức ăn đường phố đạt 101/116 và đang thực hiện 1 mô hình điểm suất ăn công nghiệp.

f. Giải quyết việc làm:

- Trong tháng đã giải quyết việc làm cho 5.436 lượt người. Trong đó: đưa vào các doanh nghiệp 3.959 lượt người; Lồng ghép các chương trình kinh tế - xã hội: 1.477 lao động. Lũy kế từ đầu năm đến nay giải quyết cho 84.833 lượt người, đạt 106,4% kế hoạch năm.

Trong tháng tổ chức 01 sàn giao dịch việc làm với sự tham gia của 27 doanh nghiệp và 350 lượt người. Đã tư vấn việc làm cho 200 lượt lao động, tiếp nhận trực tiếp 150 hồ sơ.

Trong tháng, có 3.890 người nộp hồ sơ bảo hiểm thất nghiệp, đã quyết định hưởng trợ cấp thất nghiệp cho 3.286 người. Tư vấn và giới thiệu việc làm cho 3.915 lượt lao động thất nghiệp, hỗ trợ học nghề cho 273 người.

Tổ chức 02 lớp tập huấn an toàn, vệ sinh lao động cho 120 cán bộ an toàn, công đoàn cơ sở, người sử dụng lao động của các doanh nghiệp; hỗ trợ huấn luyện an toàn, vệ sinh lao động tại doanh nghiệp.

g. Đào tạo nghề:

Trong tháng 11 đã tuyển mới đào tạo nghề cho 4.168 người, trong đó Cao đẳng: 478 người, Trung cấp: 629 người, Sơ cấp và đào tạo thường xuyên: 3.061 người (Đề án đào tạo nghề cho lao động nông thôn: 312 người). Tính từ đầu năm đến nay đã tuyển mới 75.336 người đạt 105,2% kế hoạch năm.

Tỷ lệ đào tạo từ trung cấp trở lên trên tổng số lao động đào tạo là 24,25%. Nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề từ 56,78% năm 2017 lên 59,09% năm 2018, đạt chỉ tiêu đề ra năm 2018 là 59% tỷ lệ qua đào tạo nghề.

Trong tháng 11 có 7.413 người tốt nghiệp các khóa đào tạo nghề, trong đó: Cao đẳng: 1.552 người, Trung cấp: 1.247 người, Sơ cấp và đào tạo thường xuyên: 4.114  người (Đề án đào tạo nghề cho lao động nông thôn: 464 người). Tính từ đầu năm đến nay có 62.731 người tốt nghiệp các khóa đào tạo nghề đạt 95.19% kế hoạch năm.

Phối hợp bàn giao trang thiết bị dạy nghề đợt 1 cho 2 trường cao đẳng Kỹ thuật Đồng Nai và cao đẳng công nghệ cao Đồng Nai theo dự án “Nâng cao chất lượng dạy nghề phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Đồng Nai giai đoạn 2016-2020”.

h. Công tác giảm nghèo:

Tính đến cuối tháng 10 năm 2018, toàn tỉnh cho vay tổng số hộ vay là 3.689 hộ. Trong đó số hộ nghèo vay 280 hộ với số tiền 9.382 triệu đồng; hộ cận nghèo vay 1.498  hộ với số tiền 50.718 triệu đồng và hộ thoát nghèo vay 1.911 hộ với số tiền 66.808 triệu đồng.

Ước tháng 11 năm 2018, toàn tỉnh cho vay tổng số hộ vay là 247 hộ với số tiền 29.057 triệu đồng. Trong đó số hộ nghèo vay 34 hộ với số tiền 2.001 triệu đồng; hộ cận nghèo vay 47 hộ với số tiền 9.456 triệu đồng và hộ thoát nghèo vay 166 hộ với số tiền 17.600 triệu đồng.

i. Tình hình trật tự an toàn xã hội

(Tính từ ngày 11/10/2018 đến ngày 14/11/2018)                      

- Phạm pháp hình sự: Trong tháng xảy ra 80 vụ làm chết 2 người bị thương 13 người thiệt hại 1.228 triệu đồng, đã điều tra và bắt 92 đối tượng thu hồi 581 triệu đồng, so tháng trước tăng 8 vụ, tăng 11,1%

- Phạm pháp kinh tế và phạm pháp trong lĩnh vực môi trường: Phát hiện  15 vụ phạm pháp kinh tế, bắt 17 đối tượng, xử lý hành chính 15 vụ và 16 đối tượng với số tiền 192 triệu đồng, so tháng trước giảm 29,17%.

Vi phạm trong lĩnh vực môi trường 34 vụ bắt 40 đối tượng, xử phạt hành chính 15 vụ và 16 đối tượng với số tiền 417,4 triệu đồng, so tháng trước tăng 5 vụ, tăng 19,23%.

- Tệ nạn xã hội

+ Ma túy: Phát hiện 46 vụ bắt 164 đối tượng, xử phạt hành chính 5 vụ và 109 đối tượng, lập hồ sơ khởi tố 3 vụ và 5 đối tượng so tháng trước tăng 9 vụ (+24,3%). 

+ Cờ bạc: Phát hiện 36 vụ bắt 194 đối tượng, xử phạt hành chính 20 vụ và 93 đối tượng, lập hồ sơ khởi tố 4 vụ và 13 đối tượng, so tháng trước tăng 15 vụ, tăng 71,4%. 

- Tai nạn giao thông:

+ Đường bộ: Xảy ra 33 vụ, so tháng trước tăng 24 vụ (+3,6 lần), làm chết 21 người, bị thương 23 người. Nguyên nhân đa phần do điều khiển phương tiện chạy quá tốc độ, không quan sát, đi không đúng phần đường, lấn trái đường, qua đường bất cẩn, say rượu bia, vượt sai qui định v.v..

+ Đường sắt: Xảy ra 01 vụ, làm chết 01 người, so tháng trước không tăng, không giảm.

+ Đường thủy: Trong kỳ không xảy ra.

- Tình hình cháy, nổ:

+ Cháy: trong kỳ xảy ra 12 vụ so với tháng trước tăng 6 vụ, tăng 200%

+ Nổ: Trong kỳ không xảy ra./.

 

                                                         CTK ĐỒN​G NAI

Liên kết webiste

Thăm dò ý kiến

Đánh giá về trang thông tin điện tử Cục Thống kê tỉnh Đồng Nai

 

Số lượt truy cập

Trong ngày:
Tất cả:

CỤC THỐNG KÊ TỈNH ĐỒNG NAI

Địa chỉ: Đường Đồng khởi, phường Tân Hiệp, TP. Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai
Điện thoại: (0251)3.822.419; Fax: (0251)3.819.047
Email: ctk@dongnai.gov.vn
Ghi rõ nguồn "thongke.dongnai.gov.vn" khi bạn phát hành lại thông tin từ website này​



Chung nhan Tin Nhiem Mang