Thứ 6 - 26/02/2016
Màu đỏ Màu xanh nước biển Màu vàng Màu xanh lá cây
Tình hình kinh tế xã hội năm 2018

 

​Năm 2018, là năm có ý nghĩa quan trọng, năm bản lề trong việc thực hiện các mục tiêu Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Đồng Nai lần thứ X nhiệm kỳ 2015 - 2020; Nghị quyết Hội đồng nhân dân tỉnh Khóa VIII về mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng an ninh 05 năm 2016 - 2020. Quán triệt Nghị quyết số 10-NQ/TU ngày 10/01/2018 của Tỉnh ủy; Nghị quyết số 82/2017/NQ-HĐND ngày 08/12/2017 của HĐND tỉnh về mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh năm 2018 của tỉnh Đồng Nai; UBND tỉnh ban hành Quyết định số 4440/QĐ-UBND ngày 11/12/2017 về tổ chức triển khai các giải pháp thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách Nhà nước năm 2018; đồng thời chỉ đạo các Sở ban ngành địa phương, các tổ chức, doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh tập trung mọi nguồn lực phấn đấu hoàn thành các mục tiêu, chỉ tiêu, nhiệm vụ đề ra. 

Các hoạt động văn hóa, xã hội và chính sách an sinh xã hội tiếp tục được các cấp, các ngành quan tâm đẩy mạnh thực hiện và đạt được kết quả quan trọng, đời sống dân cư được cải thiện và nâng cao. Tình hình kinh tế xã hội năm 2018 đạt được những kết quả tích cực trên các lĩnh vực như sau:

STT

​Chỉ tiêu

Đơn vị
tính

Mục tiêu cả năm 2018

Ước TH năm 2018

Ghi chú

I

Các chỉ tiêu kinh tế

 

 

 

 

1

Tăng trưởng GRDP (Giá SS 2010)

%

8 - 9

8,10

Đạt MTNQ

2

GRDP Bình quân /người (Giá HH)

USD

4.128 – 4.215

4.491

Vượt MTNQ

3

Tăng kim ngạch xuất khẩu

%

9 - 11

11,85

Vượt MTNQ

4

Hoàn thành và đưa vào sử dụng nhà ở xã hội

căn

553

205

Chưa đạt MTNQ

II

Các chỉ tiêu xã hội

 

 

 

 

1

Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên

%

1,05

1,05

Đạt MTNQ

2

Số bác sỹ/vạn dân

Bác sỹ

8

8

Đạt MTNQ

3

Số giường bệnh/vạn dân

Giường

27,9

27,9

Đạt MTNQ

4

Tỷ lệ dân số tham gia bảo hiểm y tế

%

84,5

84,5

Đạt MTNQ

5

Tỷ lệ lao động tham gia bảo hiểm xã hội

%

45,8

45,8

Đạt MTNQ

6

Tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng cân nặng theo độ tuổi

%

8,4

8,4

Đạt MTNQ

7

Tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng chiều cao theo độ tuổi

%

23,5

23,5

Đạt MTNQ

8

Tỷ lệ lao động qua đào tạo

%

76

76

Đạt MTNQ

9

Tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề

%

59

59,09

Vượt MTNQ

10

Giảm tỷ lệ hộ nghèo (Theo chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều)

%

0,2

0,2

Đạt MTNQ

11

Tỷ lệ ấp, khu phố văn hoá

%

>90

90

Đạt MTNQ

12

Tỷ lệ hộ gia đình  văn hoá

%

>98

98

Đạt MTNQ

13

Tỷ lệ hộ dùng nước sạch KV thành thị

%

99,3

99,3

Đạt MTNQ

14

Tỷ lệ hộ dùng nước hợp vệ sinh KV nông thôn

%

70

70

Đạt MTNQ

15

Tỷ lệ che phủ rừng

%

29,76

29,76

Đạt MTNQ

16

Tỷ lệ thu gom và xử lý rác thải sinh hoạt

%

98

98,1

Vượt MTNQ

17

Tỷ lệ thu gom và xử lý rác thải y tế

%

100

100

Đạt MTNQ

18

Tỷ lệ KCN đang hoạt động có trạm xử lý nước thải tập trung đạt chuẩn môi trường

%

100

100

Đạt MTNQ


1. Tổng sản phẩm quốc nội (GRDP)

2018-GRDP-122018.jpg

Dự ước năm 2018 tổng sản phẩm quốc nội (GRDP) trên địa bàn tỉnh (theo giá so sánh 2010) đạt 228.099 tỷ đồng, tăng 8,1% so với cùng kỳ, đạt mục tiêu Nghị quyết đề ra (mục tiêu cả năm tăng 8-9%). Mức tăng trưởng GRDP đạt được như trên đã khẳng định tính kịp thời và hiệu quả của các giải pháp được Tỉnh uỷ, Uỷ ban nhân dân tỉnh trong chỉ đạo quyết liệt các cấp, các ngành, các địa phương cùng nỗ lực thực hiện. 

Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) năm 2018

 

Theo giá hiện hành

Theo giá so sánh 2010

Ước tính
 năm 2018
(Tỷ đồng)

Cơ cấu
 (%)

Ước tính
 năm 2018
(Tỷ đồng)

Năm 2018
so cùng kỳ
(%)

TỔNG SỐ

315.763

100,00

228.099

108,10

- Nông, lâm nghiệp và thủy sản

28.335

8,98

20.487

104,22

- Công nghiệp và xây dựng

193.525

61,29

138.473

109,54

      Trong đó: Công nghiệp

183.870

58,23

131.502

109,62

- Dịch vụ

68.947

21,82

51.111

107,01

- Thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm

24.956

7,90

18.028

104,94


Trong mức tăng 8,1%, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 4,22%, đóng góp 0,39 điểm phần trăm vào mức tăng chung, điều này cho thấy sự phục hồi của ngành nông nghiệp sau những ảnh hưởng nặng nề của giá tiêu thụ sản phẩm chăn nuôi, thiên tai...

 Khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 9,54%, đóng góp 5,72 điểm phần trăm; điểm nổi bật của khu vực này là ngành công nghiệp chế biến, chế tạo đạt mức cao 9,86%, là ngành chiếm tỷ trọng cao trong khu vực này (chiếm 88,3%); ngành sản xuất phân phố điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước tăng 16,2% đã đóng góp đáng kể vào mức tăng trưởng chung của khu vực này.

Khu vực dịch vụ tăng 7,01%, đóng góp 1,59 điểm phần trăm, trong khu vực dịch vụ, đóng góp của một số ngành có tỷ trọng lớn vào mức tăng trưởng chung như sau: Bán buôn và bán lẻ đạt mức tăng 7,16%; Vận tải kho bãi tăng 8,68%; Thông tin truyền thông tăng 9,56%; Hoạt động tài chính ngân hàng tăng 8,35%; Nghệ thuật vui chơi giải trí tăng 8,23%; Giáo dục đào tạo tăng 7,82%; Hoạt động hỗ trợ hành chính tăng 10,41%... Thuế sản phẩm tăng 4,94%, đóng góp 0,4 điểm phần trăm. 

GRDP bình quân đầu người năm 2018 (theo giá hiện hành) dự kiến đạt 102.319 ngàn đồng, tăng 8,84% so năm trước. GRDP bình quân đầu người năm 2018 theo giá USD dự kiến đạt 4.491 USD, tăng 7,13% so năm trước và đạt 107,66% kế hoạch năm.

2. Hoạt động ngân hàng

Trên địa bàn tỉnh Đồng Nai có 40 ngân hàng với 54 Chi nhánh ngân hàng và 217 phòng giao dịch trực thuộc; 36 Quỹ tín dụng nhân dân; 04 chi nhánh Tổ chức tài chính vi mô TNHH MTV cho người lao động nghèo tự tạo việc làm (CEP). Tình hình hoạt động của các tổ chức tín dụng trên địa bàn năm 2018 tương đối ổn định và phát triển, hoạt động huy động vốn và mở rộng tín dụng được triển khai có hiệu quả; các tổ chức tín dụng thực hiện tốt việc cung ứng kịp thời, đầy đủ các dịch vụ thanh toán, tài chính phục vụ hoạt động sản xuất, kinh doanh, xuất nhập khẩu. Kết quả huy động vốn và hoạt động tín dụng cụ thể như sau:

+ Nguồn vốn: dự ước đến ngày 31/12/2018, tổng vốn huy động trên địa bàn đạt 180.314 tỷ đồng, tăng 9,01% so với cuối năm 2017

+ Về hoạt động tín dụng: Đến 31/12/2018 tổng dư nợ cấp tín dụng trên địa bàn ước đạt 191.339 tỷ đồng, tăng 19,82% so với 31/12/2017 (trong đó nợ xấu ước chiếm 1,05% trên tổng dư nợ), trong đó tổng dư nợ cho vay 188.109 tỷ đồng, tăng 20,19% so với cuối năm 2017. 

Dòng vốn vẫn điều chỉnh theo cơ cấu tích cực, tập trung đầu tư tín dụng vào các lĩnh vực ưu tiên và phù hợp với chủ trương của tỉnh, Hiện mặt bằng lãi suất cho vay VNĐ phổ biến ở mức 6 - 9%/năm đối với ngắn hạn; 9 - 11%/năm đối với trung và dài hạn. Lãi suất cho vay USD phổ biến ở mức 2,8 - 6%/năm; trong đó lãi suất cho vay ngắn hạn phổ biến ở mức 2,8 - 4,7%/năm, lãi suất cho vay trung, dài hạn ở mức 4,5 - 6%/năm. Lãi suất ổn định ở mức tương đối thấp và giảm góp phần hỗ trợ sản xuất kinh doanh, thúc đẩy kinh tế phát triển.

+ Dư nợ một số chương trình tín dụng:    

Cho vay phát triển nông nghiệp, nông thôn dư nợ ước đạt 31.600 tỷ đồng, tăng 1,15%, chiếm tỷ trọng 16,8% so với tổng dư nợ; Cho vay đối với các xã thực hiện xây dựng nông thôn mới trên địa bàn: ước đạt 47.200 tỷ đồng, tăng 16,8%; Hỗ trợ nhằm giảm tổn thất trong nông nghiệp ước đạt 6,3 tỷ đồng; Dư nợ cho vay xuất nhập khẩu ước đạt 31.060 tỷ đồng, tăng 45,4%, chiếm tỷ trọng 16,5% so với tổng dư nợ trên địa bàn. Trong đó, cho vay xuất khẩu ước đạt 15.184 tỷ đồng, tăng 41,13% so với đầu năm; Dư nợ cho vay Doanh nghiệp nhỏ và vừa ước đạt 32.614 tỷ đồng, tăng 10,1%, chiếm tỷ trọng 17,3%; Dư nợ cho vay phát triển công nghiệp hỗ trợ ước đạt 993 tỷ đồng...

+ Về hoạt động cho vay của Ngân hàng Chính sách xã hội:

Thực hiện nhiệm vụ tổ chức cho vay các chương trình tín dụng chính sách trên địa bàn theo chỉ tiêu kế hoạch được NHCSXHVN giao và gắn với mục tiêu, kế hoạch hàng năm của chương trình giảm nghèo - giải quyết việc làm và các chương trình phát triển nông nghiệp, nông thôn của tỉnh. Kết quả hoạt động theo kế hoạch đến 30/11/2018 dư nợ đạt 2.266,4 tỷ đồng, đạt 172% so với đầu năm và hoàn thành 98,2% kế hoạch giao.

Năm 2018 các tổ chức tín dụng trên địa bàn đã triển khai thực hiện hiệu quả một số giải pháp tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, hỗ trợ thị trường giải quyết nợ xấu. Tập trung ưu tiên vốn, mở rộng tín dụng cho vay khách hàng, nhất là các khách hàng thuộc các lĩnh vực ưu tiên: nông nghiệp, sản xuất hàng xuất khẩu, công nghiệp hỗ trợ, doanh nghiệp ứng dụng khoa học công nghệ cao phổ biến ở mức 7 - 8%/năm, thấp hơn lãi suất cho vay các lĩnh vực khác khoảng 2-3%/năm. Các TCTD giảm lãi suất cho vay đối với các lĩnh vực ưu tiên đã đáp ứng kịp thời nhu cầu vay vốn cho sản xuất  kinh doanh, dịch vụ, tiêu dùng, tạo điều kiện để tăng gia sản xuất. Đặc biệt, việc đáp ứng vốn đầy đủ kịp thời đã hạn chế tình trạng vay vốn qua trung gian và vay nặng lãi ở nông thôn. Những chính sách thiết thực này đang giúp cho người nông dân, góp phần ổn định cuộc sống, ổn định giá trị hàng nông sản trong thị trường quốc tế. Bên cạnh đó các giải pháp tháo gỡ khó khăn như: Hỗ trợ thị trường; đối thoại tháo gỡ khó khăn cho từng ngành kinh tế; kết nối ngân hàng với doanh nghiệp, kết hợp với việc triển khai các gói sản phẩm tín dụng với lãi suất thấp đã từng bước tháo gỡ khó khăn trong sản xuất kinh doanh, cải thiện môi trường đầu tư góp phần ổn định nền kinh tế vĩ mô.

3. Sản xuất công nghiệp

Sản xuất công nghiệp trên địa bàn tỉnh năm 2018, tiếp tục duy trì ổn định và phát triển. Đặc biệt ngành công nghiệp chế biến, chế tạo là ngành chiếm tỷ trọng cao nhất (chiếm trên 90%) ngành công nghiệp luôn tăng cao hơn mức tăng bình quân chung của toàn ngành đã góp phần làm tăng chỉ số sản xuất công nghiệp trên địa bàn tỉnh. Đồng thời xuất khẩu luôn giữ được mức tăng trưởng cao và tiếp tục thực hiện chủ trương thu hút các dự án đầu tư nước ngoài, khuyến khích hỗ trợ các thành phần kinh tế trong ngành công nghiệp nên vẫn duy trì được mức tăng của các ngành công nghiệp chủ lực, đặc biệt là khu vực có vốn đầu tư nước ngoài năm 2018 có thêm nhiều dự án hoàn thành xây dựng đi vào hoạt động với qui mô sản xuất lớn đã góp phần tăng năng lực sản xuất của ngành công nghiệp.

Chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) trên địa bàn tháng 12/2018 tăng 2,1% so tháng trước. Trong đó: Khai khoáng giảm 1,36%; Công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 2,21%; sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước tăng 1,03%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước tăng 1,04%.

Chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) trên địa bàn quý IV/2018 tăng 10,8% so so cùng kỳ. Trong đó: Khai khoáng tăng 11,64%; Công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 10,73%; sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước tăng 15,35%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước tăng 9,16%. Qua số liệu 4 quý cho thấy chỉ số sản xuất công nghiệp tăng dần qua 4 quý: quý I tăng 7,52%; quý 2 tăng gần 8,99%; quý 3 tăng 9,82% và quý 4 tăng 10,8%. Qua đây thấy sản xuất công nghiệp trên địa bàn tăng trưởng ổn định các quý trong năm.

2018-Cong nghiep-122018.jpg

Chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) trên địa bàn năm 2018 tăng 9,01% so cùng kỳ. Trong đó: Khai khoáng tăng 6,42%; nhóm ngành chế biến, chế tạo tăng 9,16%; sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước, tăng 6,72%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước tăng 12,26%. 

Năm 2018, chỉ số sản xuất công nghiệp trên địa bàn tỉnh tiếp tục đạt mức tăng trưởng cao so cùng kỳ, là do kết quả đóng góp của các  ngành công nghiệp chủ lực sản xuất ổn định nhờ xuất khẩu sản phẩm thuận lợi, thúc đẩy sản xuất đã góp phần làm tăng chỉ số sản xuất công nghiệp. Trong các ngành công nghiệp cấp II trong năm hầu hết các ngành đều có chỉ số sản xuất công nghiệp tăng so cùng kỳ, cụ thể ở một số ngành công nghiệp chủ lực như sau: 

- Chỉ số sản xuất công nghiệp của ngành khai khoáng tăng 6,42% so cùng kỳ. Đây là ngành có mức tăng trưởng thấp từ đầu năm đến nay, nguyên nhân là do gần đây trữ lượng các mỏ đá giảm dần, việc khai thác cát, đá sắp xếp quản lý chặt chẽ hơn nên sản lượng khai thác tăng trưởng có xu hướng chậm lại.

- Chỉ số sản xuất công nghiệp của ngành sản xuất chế biến thực phẩm tăng 4,75% so cùng kỳ. Nguyên nhân ngành này tăng thấp là do  nhu cầu tiêu thụ các sản phẩm thức ăn gia súc gia cầm từ đầu năm đến nay tăng thấp, mặc dù đàn heo đang được phục hồi nhưng còn chậm. Bên cạnh đó một số sảm phẩm thuộc ngành chế biến thực phẩm gặp khó khăn trong việc tiêu thụ, ký kết hợp đồng mới do đơn giá xuất khẩu năm 2018 giảm so các năm trước, một số hợp đồng sản xuất giảm nên đã ảnh hưởng mức tăng chung của ngành chế biến thực phẩm. 

- Chỉ số sản xuất công nghiệp của ngành sản xuất sản phẩm thuốc lá tăng 6,81% so cùng kỳ. Nhìn chung ngành sản xuất thuốc lá tăng trưởng chậm lại do nhu cầu tiêu thụ giảm dần, bên cạnh đó còn gặp khó khăn do tình trạng nhập lậu thuốc lá ngoại nên mức độ tăng trưởng của ngành này không cao. 

- Chỉ số sản xuất công nghiệp của ngành dệt tăng 15,14% so cùng kỳ. Đây là ngành sản xuất có quy mô khá lớn, do có hợp đồng sản xuất ổn định, các doanh nghiệp có hợp đồng từ đầu năm do đó duy trì được mức tăng trưởng khá.

- Chỉ số sản xuất ngành sản xuất da và các sản phẩm có liên quan tăng 12,57% so cùng kỳ. Đây là ngành công nghiệp chủ lực, chiếm tỷ trọng cao về giá trị sản xuất trong toàn ngành công nghiệp. Nguyên nhân tăng cao là do thị trường xuất khẩu ổn định, các doanh nghiệp sản xuất giày da có quy mô lớn ký được hợp đồng xuất khẩu lớn cả năm. Một số công ty có mức tăng trưởng khá so cùng kỳ như: Công ty Chang shin, công ty Pousung, công ty Taekwang, công ty Việt Vinh, Cty TNHH Pouchen Việt Nam…  

- Chỉ số sản xuất ngành sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và các sản phẩm quang học tăng 13,96% so cùng kỳ. Do nhu cầu đời sống của nhân dân ngày càng cao nên nhu cầu mua sắm các thiết bị máy lạnh, máy vi tính, ti vi, tủ lạnh ngày càng tăng, do đó các công ty đẩy mạnh tiến độ sản xuất để phục vụ người dân. Mặt khác đây là ngành gia công hàng xuất khẩu sản phẩm cho các tập đoàn ở nước ngoài có hợp đồng gia công lớn.

- Chỉ số sản xuất ngành sản xuất hóa chất và sản phẩm hóa chất tăng 6,27%. Cùng với ngành dệt đây cũng là ngành sản xuất công nghiệp phụ trợ nhu cầu tiêu thụ phục vụ cho ngành giày da, dệt và các ngành khác nên sản lượng năm nay có mức tăng trưởng khá so cùng kỳ.

Ngoài ra, các ngành có quy mô sản xuất lớn vẫn duy trì mức tăng trưởng khá ổn định như: Ngành sản xuất đồ uống (+13,3%); sản xuất trang phục (+7,5%), sản xuất giấy (+14,6%); sản xuất kim loại (+10,3%); sản xuất sản phẩm khoáng phi kim loại (+7,5%); sản xuất máy móc thiết bị chưa phân vào đâu (+7,5%); sản xuất thiết bị điện (+9,1%)... do có thị trường tiêu thụ ổn định. 

Chỉ số sản xuất công nghiệp của các ngành công nghiệp chủ lực

tháng 12 và năm 2018

Chỉ tiêu

Tháng 12/2018 so với (%)

Chỉ số cộng dồn năm 2018 so cùng kỳ (%)

tháng trước

cùng tháng năm trước

 Một số ngành công nghiệp chủ lực

 

 

 

Sản xuất chế biến thực phẩm

103,19

109,26

104,75

Dệt

102,35

117,37

115,14

Sản xuất trang phục

103,44

111,61

107,55

Sản xuất da và các sản phẩm có liên quan

100,68

135,61

112,57

Sản xuất hoá chất và sản phẩm hoá chất

100,24

116,32

106,27

Sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic

107,98

105,83

102,79

Sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học

100,86

121,21

113,96

Sản xuất thiết bị điện

108,51

132,50

109,12

Sản xuất xe có động cơ

100,02

111,98

102,99

Sản xuất giường, tủ, bàn, ghế

104,34

123,69

106,78


- Một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu năm nay tăng so với cùng kỳ như: Vải các loại  đạt 670,8 triệu m2, tăng 21,3%; Thuốc bảo vệ thực vật đạt 3.141,6 tấn, tăng 16,6%; Sợi các loại đạt 1.291,8 nghìn tấn, tăng 15,4%; Quần áo các loại đạt 159.687 nghìn cái, tăng 11,5%; Giày dép các loại đạt 403,9 triệu đôi, tăng 10,8%; Bao bì các loại đạt 217,6 nghìn tấn, tăng 3,8%; Thuốc lá sợi đạt 21.075 tấn, tăng 5,3%; Thép các loại đạt 644,9 nghìn tấn, tăng 7,8%; Đá xây dựng các loại đạt 18.118,9 nghìn m3, tăng 6,4; Cà phê các loại đạt 342,2 nghìn tấn, tăng 9,9%.v.v. Hầu hết sản phẩm công nghiệp năm 2018 đều tăng so cùng kỳ, là do các doanh nghiệp nhận được đơn hàng, thị trường xuất khẩu được mở rộng và thuận lợi hơn. Tuy nhiên có một số sản phẩm giảm so cùng kỳ như: Sơn các loại giảm 7,3%; Bê tông trộn sẵn giảm 1,1%; Máy giặt giảm 24,1%... chủ yếu do tiêu thụ sản phẩm khó khăn, sản xuất giảm.

- Chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo năm 2018 tăng 6,3% so cùng kỳ. Trong đó, một số ngành có chỉ số tiêu thụ tăng so cùng kỳ là: Sản xuất chế biến thực phẩm (+4,8%); sản xuất đồ uống (+10,6%); sản xuất sản phẩm thuốc lá (+6,7%); dệt (+11,8%); sản xuất trang phục (+5,2%); sản xuất da và các sản phẩm liên quan (+8,7%); Sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy (+20,4%); sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại (+8,2%); sản xuất kim loại (+9,5%); sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn (+9,1%); sản xuất máy móc thiết bị chưa phân vào đâu (+7,7%); Sản xuất giường, tủ, bàn ghế (+10,7%)…  Bên cạnh những ngành có chỉ số tiêu thụ tăng cũng có một số ngành giảm như: sản xuất hóa chất và sản phẩm từ hóa chất (-4,4%); sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học (-3,4%); sản xuất phương tiện vận tải khác (-9,2%). sản xuất xe có động cơ (-1,9%).

- Chỉ số tồn kho toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tháng 12/2018 dự tính tăng 5,4% so với tháng trước. Một số ngành có chỉ số tồn kho tăng, giảm so tháng trước như sau: Sản xuất chế biến thực phẩm (+36,5%); sản xuất sản phẩm thuốc lá (+33,2%); dệt (+0,5%); sản xuất da và các sản phẩm có liên quan (+3%); chế biến gỗ (+34); sản xuất hóa chất và sản phẩm từ hóa chất (1,8%); sản xuất thuốc, hóa dược (+6,6%); sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic (+6,9%); Sản xuất sản phẩm khoáng phi kim loại (+0,5%); sản xuất sản phẩm điện tử (+8,1%); sản xuất thiết bị điện (+9,3%). sản xuất giường tủ, bàn ghế (+2,1%)... Một số ngành có chỉ số tồn kho giảm là: Sản xuất đồ uống (-0,5%); sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy (-2,5%); Sản xuất trang phục (-15,9%); sản xuất từ kim loại (-1,3%). 

 - Chỉ số sử dụng lao động tháng 12/2018 tăng 0,9% so tháng trước và tăng 4,4% so cùng tháng năm trước. Tính chung cả năm 2018, chỉ số sử dụng lao động tăng 2,95% so cùng kỳ, trong đó: doanh nghiệp nhà nước giảm 5,6%; doanh nghiệp ngoài quốc doanh tăng 1,2%; doanh nghiệp đầu tư nước ngoài tăng 3,3%. Một số ngành công nghiệp cấp II có chỉ số sử dung lao động tăng so cùng kỳ như: Dệt tăng 3,8%; Trang phục tăng 7,8%; sản xuất da và các sản phẩm liên quan tăng 4,5%; Sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy tăng 1,5%; Sản xuất hóa chất và sản phẩm hóa chất tăng 8,8%; Sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic tăng 7%; sản xuất xe có động cơ tăng 4,1%....Đồng thời cũng có một số ngành chỉ số sử dụng lao động giảm như: Chế biến gỗ giảm 9,8%; sản xuất sản phẩm khoáng phi kim loại giảm 4,2%; Thiết bị điện giảm 6%; sản xuất giường, tủ, bàn ghế giảm 7,8%. 

4. Hoạt động xây dựng 

Hoạt động xây dựng trên địa bàn tỉnh tiếp tục triển khai các dự án công trình, tập trung hoàn thành nhiệm vụ và chỉ tiêu kế hoạch đề ra, đặc biệt chú trọng việc nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý trong công tác kiểm tra, giám sát thi công các công trình. Trong quý IV các đơn vị xây lắp tiếp tục đẩy mạnh thi công các công trình, dự án, hạng mục công trình xây dựng nhằm đảm bảo tiến độ theo yêu cầu của các chủ đầu tư hoàn thành kế hoah đề ra. Năm 2018 nhu cầu đầu tư cơ sở hạ tầng và nhà ở dân cư tăng cao, một số dự án mới tăng và các dự án chuyển tiếp từ năm 2017 được tập trung đẩy mạnh tiến độ thi công đã góp phần tăng giá trị sản xuất ngành xây dựng. Tình hình cụ thể như sau:

Dự ước năm 2018 giá trị xây lắp trên địa bàn (giá hiện hành) đạt 37.844 tỷ đồng, tăng 15,96% so với cùng kỳ. Trong đó: Doanh nghiệp nhà nước đạt 151 tỷ đồng, tăng 10,98%; doanh nghiệp ngoài Nhà nước đạt 25.195 tỷ đồng, tăng 16,35%; doanh nghiệp có vốn ĐTNN đạt 2.639 tỷ đồng, tăng 15,27%; loại hình khác đạt 9.859 tỷ đồng, tăng 15,25%.

Dự ước giá trị xây lắp trên địa bàn năm 2018 (giá so sánh 2010) đạt 26.650,5 tỷ đồng, tăng 8,7% so cùng kỳ. Trong đó: Công trình nhà ở tăng 7,1%; Công trình nhà không để ở, tăng 8,5%; công trình kỹ thuật dân dụng tăng 7,7%; hoạt động xây dựng chuyên dụng tăng 12,3%.

Một số đơn vị xây dựng có mức tăng so cùng kỳ như: Công Ty Trách Nhiệm Hữu Hạn MTV Phát Triển Đô Thị Và KCN – IDICO thực hiện 66,7 tỷ đồng, tăng 11,65%; Công ty cổ phần kinh doanh nhà Đồng Nai thực hiện 13 tỷ đồng, tăng 12,14%; Công ty cổ phần xây lắp sản xuất thiết bị ngành nước thực hiện 12,8 tỷ đồng, tăng 10,43%; Công Ty TNHH Xây Dựng Ho Team thực hiện 66 tỷ đồng tăng 11,47%; Công Ty Trách Nhiệm Hữu Hạn Chig Feng thực hiện 27 tỷ đồng, tăng 18,02%; Công Ty Trách Nhiệm Hữu Hạn Cơ Khí Công Trình Wei Chien thực hiện 45 tỷ đồng, tăng 21%; Công Ty Trách Nhiệm Hữu Hạn Best Sun Technology thực hiện 82 tỷ đồng, tăng 15,95%…

Hoạt động xây dựng trên địa bàn tỉnh có nhiều chuyển biến tích cực, Giá trị sản xuất ngành xây dựng ở hầu hết các thành phần kinh tế đều tăng so với cùng kỳ. Các ngành, các cấp tích cực triển khai thực hiện các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp xây dựng như: công tác huy động các nguồn vốn đầu tư và vận động vốn xã hội hóa từ cá nhân và tổ chức, tập trung đẩy mạnh việc mời gọi nhà đầu tư tham gia dự án đã được phê duyệt... Bên cạnh đó ngành xây dựng tập trung triển khai rà soát và đẩy mạnh thực hiện các quy hoạch như: Tăng cường công tác quản lý quy hoạch, quản lý đô thị trên địa bàn tỉnh; Chỉ đạo các Sở ngành liên quan tăng cường công tác phối hợp trong việc kiểm tra, rà soát xử lý đối với các quy hoạch chồng chéo, quy hoạch không phù hợp, các dự án chậm triển khai, không triển khai hoặc không có khả năng triển khai trên địa bàn tỉnh.

5. Sản xuất Nông - Lâm nghiệp và thủy sản

Tình hình sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản trên địa bàn tỉnh năm 2018 nhìn chung thuận lợi hơn năm trước; hoạt động chăn nuôi kiểm soát, khống chế được dịch bệnh, giá tiêu thụ, giá heo hơi tăng khá so cùng kỳ. Thời tiết thuận lợi hơn nên cây lâu năm phát triển khá. Hoạt động thủy sản đầu tư ao, hồ, con giống vật nuôi, thay đổi cách nuôi nhằm giảm chi phí nhưng có hiệu quả kinh tế cao, đặc biệt là các loại thủy sản có giá bán ổn định và thị trường tiêu thụ tốt. Dự ước giá trị sản xuất nông, lâm, thủy sản (giá so sánh 2010) năm 2018 đạt 40.714,7 tỷ đồng, tăng 4,42% so cùng kỳ. Trong đó: Giá trị sản xuất nông nghiệp ước đạt 36.553,2 tỷ đồng, tăng 4,46% (trồng trọt tăng 2,72%; chăn nuôi tăng 5,76%; dịch vụ tăng 4,47%); Giá trị sản xuất lâm nghiệp ước đạt 2.085,8 tỷ đồng, tăng 2,74%; Giá trị sản xuất thủy sản ước đạt 2.075,7 tỷ đồng, tăng 5,49% so cùng kỳ.

5.1. Nông nghiệp

a. Cây hàng năm

Trong tháng 12 và cả năm tình hình trồng trọt trên địa bàn tỉnh Đồng Nai tương đối ổn định, thời tiết và khí hậu không ảnh hưởng nhiều đến việc phát triển của cây trồng. Ước tính tổng diện tích gieo trồng cây hàng năm cả năm 2018 là 159.673,2 ha, giảm 436,6 ha (-0,27%) so với cùng kỳ. Trong đó, diện tích cây lương thực đạt 105.480,8 ha, giảm 1.301.2 ha (-1,22%); Cây củ có bột đạt 16.702,5 ha, tăng 793,5 ha (+4,99%); Cây rau, đậu đạt 19.675 ha, giảm 132 ha (-0,67%); Cây công nghiệp hàng năm đạt 11.523,7 ha, giảm 94 ha (-0,81%) so cùng kỳ.

Sơ bộ dự ước năng suất một số cây trồng năm 2018 tăng, giảm so cùng kỳ như sau: Năng suất cây lúa đạt 56,1 tạ/ha, tăng 0,16 tạ/ha (+0,28%); Bắp đạt 74,2 ta/ha, giảm 1,35 tạ/ha (-1,79%); Khoai mỳ đạt 292,1 tạ/ha, tăng 8,04 tạ/ha (+2,83%); Mía đạt 919,4 tạ/ha, tăng 49,64 tạ/ha (+5,71%); Thuốc lá đạt 24,1 tạ/ha, tăng 4,18 tạ/ha (+20,99%); Rau các loại: 160,6 tạ/ha, tăng 8,78 tạ/ha (+5,79%);  Đậu các loại đạt 13,4 tạ/ha, tăng 0,64 ta/ha (+5,07%). Nguyên nhân tăng do người nông dân sử dụng và lựa chọn giống cây trồng, thực hiện có hiệu quả các biện pháp khoa học kỹ thuật đối với cây trồng, bên cạnh đó thời tiết trong năm mưa đều rất phù hợp với một số cây như bắp, rau các loại sinh trưởng và phát triển.

Căn cứ trên diện tích, năng suất từng loại cây trồng, sơ bộ dự ước sản lượng thu hoạch cây trồng năm 2018 tăng, giảm so cùng kỳ như sau: Sản lượng lúa đạt 342.462,5 tấn, tăng 3.353 tấn (+0,99%); Bắp đạt 329.616 tấn, giảm 19.068 tấn (-5,47%); Khoai lang đạt 4.665,4 tấn, tăng 1.406 tấn (+43,14%); Khoai mỳ đạt 446.499 tấn, tăng 31.525 tấn (+7,6%); Rau các loại đạt 241.440,3 tấn, tăng 8.173 tấn (+3,5%); Đậu các loại đạt 6.198 tấn, tăng 65 tấn (1,06%) so cùng kỳ.

b. Cây lâu năm

Tổng diện tích cây lâu năm toàn tỉnh hiện có là 179.782,95 ha, tăng 1,56% (+2.762 ha) so cùng kỳ. Trong đó cây ăn quả đạt 53.496,15 ha, tăng 3,65% (+1.880,76 ha), cây công nghiệp lâu năm đạt 126.313,8 ha, tăng 0,7% (+881,28 ha) so cùng kỳ.

Dự ước năng suất một số cây trồng năm 2018 tăng, giảm so cùng kỳ như sau: Năng suất Xoài đạt 84,87 tạ/ha, tăng 1,16%; Chuối đạt 158,94 tạ/ha, giảm 0,01%; Sầu riêng đạt 101,29 tạ/ha tăng 2,46%; Mít đạt 196,36 tạ/ha tăng 1,73%; Cam đạt 112,34 tạ/ha giảm 0,44%; Quýt đạt 158,23 tạ/ha tăng 0,47%; Bưởi đạt 122,1 tạ/ha, tăng 0,02%; Chôm chôm đạt 141,8 tạ/ha tăng 3,09%; Điều đạt 11,41 tạ/ha tăng 36,08%; Hồ tiêu đạt 22,09 tạ/ha, tăng 3,33%; Cà phê đạt 23,45 tạ/ha, tăng 1,96%; Cao su đạt 14,49 tạ/ha, tăng 3,24% so với cùng kỳ. Nguyên nhân năng suất tăng do sự quan tâm của các Sở ngành chức năng đã hỗ trợ nông dân trong việc tư vấn sử dụng và lựa chọn giống cây trồng phù hợp thổ nhưỡng của từng loại cây trong việc sinh tưởng và đậu trái.

Sản lượng cây lâu năm tăng khá ở một số cây đặc thù và chiếm ưu thế trên địa bàn đó là: Sản lượng xoài tăng 2,5%; Chuối tăng 9,42%; Thanh long tăng 3,22%; Sầu riêng tăng 5,98%; măng cụt tăng 6,27%; Mít tăng 2,53%; Bưởi tăng 5,34%; Cam tăng 6,58%, Chôm chôm tăng 4,27%; Điều tăng 34,46%, Cao su tăng 4,21%; Tiêu tăng 3,63% và cà phê tăng 2,61% so cùng kỳ.

Do thực hiện tốt công tác phòng chống dịch bệnh ở cây trồng, chống hạn và ngập lụt nên hầu hết các loại cây trồng mức độ thiệt hại ít, không có diện tích nhiễm nặng ảnh hưởng đến năng suất cây trồng

c. Chăn nuôi

Từ đầu năm 2018 đến nay tình hình sản xuất chăn nuôi trên địa bàn tỉnh không phát sinh dịch bệnh, giá tiêu thụ sản phẩm heo tăng trở lại, số lượng gia súc gia cầm tăng so cùng kỳ, thị trường heo từ đầu quý II/2018 bắt đầu khởi sắc. Việc tái đàn và mở rộng quy mô của trang trại, gia trại và doanh nghiệp đầu tư mới trở lại, tuy nhiên mức nuôi trở lại vẫn còn hạn chế.

Số lượng gia súc, gia cầm trên địa bàn tỉnh tại thời điểm tháng 12/2018

Đơn vị tính

Chính thức cùng kỳ

Thực hiện kỳ báo cáo

So sánh cùng kỳ (%)

I. Gia súc

Con

2.154.971

2.598.203

120,57

  1. Trâu

Con

2.934

3.030

103,27

  2. Bò

Con

74.948

77.164

102,96

     Tr. đó: Bò sữa

Con

343

332

96,79

  3. Lợn

Con

2.077.089

2.518.009

121,23

II. Gia cầm

1000 con

20.713,82

23.655,86

114,20

    Trong đó: Gà

1000 con

19.621,98

22.245,16

113,37


- Số lượng đàn: Tổng đàn gia súc hiện có là 2.598.203 con, tăng 443.232 con (+20,57%) so cùng kỳ. Trong đó trâu đạt 3.030 con, tăng 3,27%, bò đạt 77.164 con, tăng 2,96%; heo đạt 2.518.009 con, tăng 21,23%. Nguyên nhân số lượng heo tăng cao là hiện nay giá bán heo hơi vẫn ở mức cao từ 50 – 53 nghìn đồng/kg, người chăn nuôi có lợi nhuận, nên đã kích thích người dân phát triển đàn, hơn nữa do chuẩn bị số lượng heo xuất chuồng trong dịp Tết nguyên đán.

Do thời gian qua gà bán được giá nên các trang trại đã chủ động tăng đàn. Hơn nữa, khoảng 80% tổng đàn gà tại Đồng Nai được nuôi theo hình thức trại tập trung, áp dụng các qui trình an toàn dịch bệnh nên đảm bảo chất lượng sinh trưởng vật nuôi. Hiện nay, một số trang trại nuôi gà thịt đã kết nối được các doanh nghiệp tiêu thụ, tạo thành chuỗi khép kín từ trang trại đến bàn ăn, góp phần thúc đây hoạt động chăn nuôi phát triển. Tổng đàn gia cầm hiện có là 23.655,86 ngàn con, tăng 14,2% so cùng kỳ, trong đó gà đạt 22.245,16 ngàn con, tăng 13,37% so cùng kỳ.

- Sản lượng sản phẩm:  Dự ước sản lượng sản phẩm chăn nuôi gia súc, gia cầm toàn tỉnh năm 2018 tăng, giảm so cùng kỳ như sau: Sản lượng thịt trâu dự ước 282 tấn, giảm 15 tấn (-5,05%); thịt bò dự ước 6.428 tấn, giảm 98 tấn (-1,5%); thịt heo 421.358 tấn, tăng 9.978 tấn (+2,43%) so cùng kỳ; thịt gia cầm 103.223 tấn, tăng 7.947 tấn (+8,34%) so cùng kỳ. Sản lượng trứng gia cầm đạt 679.286 ngàn quả, tăng 29.524 ngàn quả (+4,54%) so cùng kỳ.

2018-Nong nghiep-122018.jpg

5.2. Hoạt động Lâm nghiệp

- Công tác trồng và chăm sóc, nuôi dưỡng rừng: Trong tháng 12/2018 thời tiết đã ở mùa khô nên người làm lâm nghiệp tập trung vào việc chăm sóc và nuôi dưỡng diện tích từng trồng mới trong năm. Ước năm 2018 diện tích rừng trồng mới tập trung đạt 4.702 ha, tăng 1,69% so cùng kỳ. Diện tích rừng trồng mới chủ yếu là diện tích rừng sản xuất do các đơn vị chủ rừng sau khi khai thác đã tổ chức trồng lại ngay. Diện tích rừng trồng được chăm sóc năm 2018 ước đạt 15.259 ha tăng 2,6% (+386 ha); Diện tích rừng được giao khoán bảo vệ ước đạt 85.871 ha, tăng 3,26% (+2.711 ha) so cùng kỳ. Ươm giống cây lâm nghiệp ước đạt 446.764 ngàn cây tăng 2,2% (+9.617 ngàn cây) so cùng kỳ.

- Khai thác gỗ và lâm sản: Sản lượng gỗ khai thác dự ước tháng 12/2018 đạt 12.817 m3, tăng 5,69% so tháng cùng kỳ; ước năm 2018 đạt 180.371 m3¬, tăng 1,63% so cùng kỳ, nguyên nhân tăng là gỗ nguyên liệu giấy đến thời kỳ khai thác nên sản lượng tăng khá so với cùng kỳ.

Sản lượng củi khai thác dự ước tháng 12/2018 đạt 218 Ste, tăng 3,32% so tháng cùng kỳ, ước năm 2018 đạt 1.189 Ste tăng 1,45% so cùng kỳ.

- Công tác PCCCR và quản lý bảo vệ rừng: Trong tháng 12/2018 không xảy ra vụ cháy rừng nào, tính từ đầu năm đến nay xảy ra 4 vụ cháy rừng tại huyện Vĩnh Cửu gây thiệt hại 0,65 ha rừng trồng keo. Tình hình lâm phận trên toàn tỉnh ổn định, công tác quản lý bảo vệ rừng được duy trì và tăng cường; trên địa bàn tỉnh không xảy ra các vụ vi phạm lớn gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến tài nguyên rừng; các kế hoạch, dự án, đề án, phương án được thực hiện đúng tiến độ, kế hoạch đề ra.

- Công tác kiểm tra kiểm soát và xử lý vi phạm: Qua kiểm tra kiểm soát trong tháng 12/2018 đã phát hiện 22 vụ vi phạm Luật Bảo vệ và Phát triển rừng (tăng 02 vụ so với tháng trước), cụ thể như sau: khai thác rừng trái phép 06 vụ; vận chuyển lâm sản trái pháp luật 02 vụ; vi phạm mua bán, cất giữ chế biến lâm sản trái phép 04 vụ; vi phạm quy định về quản lý bảo vệ động vật hoang dã 02 vụ; vi phạm các quy định chung của Nhà nước về bảo vệ rừng 01 vụ; vi phạm thủ tục hành chính trong quản lý, sử dụng rừng 06 vụ; vi phạm khác 01 vụ. Lực lượng kiểm lâm đã xử lý, tịch thu các cá thể động vật hoang dã, 8.679 m3 gỗ tròn  và 1.162 m3 gỗ xẻ các loại; thu nộp ngân sách 372,3 triệu đồng. Lũy kế từ đầu năm lực lượng kiểm lâm đã thu nộp ngân sách 609,79 triệu đồng.

5.3. Lĩnh vực Thủy sản

- Nuôi trồng thủy sản: Diện tích nuôi trồng thủy sản không sử dụng lồng bè, bể bồn hiện có là 8.698,28 ha, giảm 1% so cùng kỳ (-89,78 ha). Diện tích giảm chủ yếu ở huyện Tân phú (-80,38 ha) do diện tích ao hồ bị lấp để trồng cây lâu năm, huyện Nhơn Trạch (-57,5 ha) do năm 2018 diện tích nuôi tôm sú nay trả lại đất cho dự án, huyện Long thành (-9,61 ha) và TP.Biên Hòa (-8 ha) do ao, hồ nuôi cá bị lấp để bán đất nền, các huyện có diện tích nuôi trồng thủy sản tăng như Vĩnh Cửu (+33,7 ha), Định Quán (+27,73 ha) và Trảng Bom (+6,75 ha) do mở rộng diện tích ao hồ để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người dân.

- Sản lượng thủy sản: Dự ước sản lượng thủy sản trong tháng 12/2018 đạt 6.323,56 tấn; ước năm 2018 sản lượng thủy sản đạt 62.021,58 tấn, tăng 6,95% so cùng kỳ, trong đó: Cá đạt 54.277,85 tấn tăng 5,25%; tôm đạt 7.084,54 tấn, tăng 20,44%; Thủy sản khác đạt 659,19 tấn, tăng 22,44% so cùng kỳ. Nguyên nhân tăng do nhu cầu thị trường tiêu thụ xã hội ngày một tăng, mặt khác sản phẩm thủy sản giá ổn định, do đó mà hộ gia đình chủ động mở rộng diện tích nuôi trồng ao hồ, bể bồn và lồng bè, ngoài ra nhiều hộ gia đình chủ động áp dụng khoa học kỹ thuật trong việc nuôi trồng, chăm sóc con giống, vật nuôi, nhằm hạn chế dịch bệnh phát sinh, nên sản lượng thủy sản tăng khá so cùng kỳ.

6. Thương mại, giá cả, vận tải và du lịch

a. Thương mại

Tình hình bán lẻ, doanh thu dịch vụ tháng 12, quý IV và dự ước cả năm năm 2018 như sau:

* Tháng 12 các hoạt động kinh tế hoạt động sôi nổi hơn trong các lĩnh vực, giá hàng hóa dịch vụ, phục vụ đời sống tăng nhẹ ở một số nhóm ngành, giá xăng, dầu giảm. Do sắp tới lễ Noel và Tết dương lịch nên nhu cầu mua sắm, vui chơi, giải trí tăng đã góp phần đưa tổng mức bán lẻ hàng hóa, doanh thu dịch vụ tăng so với tháng trước. Tổng mức bán lẻ hàng hoá và dịch vụ tháng 12 ước đạt 14.011,95 tỷ đồng, tăng 0,91% so tháng trước. Trong đó: Kinh tế nhà nước ước đạt 851,31 tỷ đồng, tăng 0,78%; Kinh tế ngoài nhà nước ước đạt 12.788,28 tỷ đồng, tăng 0,92%; Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài ước đạt 372,36 tỷ đồng, tăng 0,88% so tháng trước.

* Tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ quý IV/2018 ước thực hiện đạt 41.762,2 tỷ đồng, tăng 4,4% so quý III/2018 và tăng 12,4% so cùng kỳ. Trong đó ngành thương nghiệp thực hiện 30.127,5 tỷ đồng, tăng 12,7% so cùng kỳ; ngành khách sạn nhà hàng thực hiện 3.708,2 tỷ đồng, tăng 12,1%; ngành du lịch lữ hành thực hiện 18,9 tỷ đồng tăng 13,4%; ngành dịch vụ thực hiện 7.907,7 tỷ đồng, tăng 11,3%. Nhìn chung hoạt động thương nghiệp, dịch vụ quý IV/2018 tương đối ổn định, các lĩnh vực kinh doanh đều tăng so quý trước và tăng so cùng kỳ.

* Dự ước cả năm 2018 tổng mức bán lẻ hàng hoá và dịch vụ đạt 162.515,1 tỷ đồng, tăng 11,55% so cùng kỳ và đạt 98,26% so kế hoạch năm. 

2018-Thuong nghiep-122018.jpg

Tổng mức bán lẻ hàng hoá và dịch vụ năm 2018 chia theo ngành hoạt động:

- Kinh tế nhà nước dự ước đạt 10.982,25 tỷ đồng, chiếm 6,76% và tăng 5,39% so cùng kỳ. Các doanh nghiệp nhà nước hoạt động trong lĩnh vực thương mại dịch vụ SXKD tương đối ổn định, một số ngành kinh doanh tăng trưởng khá. Bên cạnh đó, một số ngành kinh doanh xu hướng chậm lại và giảm so với cùng kỳ. Trong năm qua mặt hàng kinh doanh chủ lực của khu vực này là xăng dầu do giá tăng đã góp phần làm cho tổng mức bán lẻ hàng hóa, dịch vụ khu vực này tăng lên. 

Lĩnh vực kinh doanh bất động sản năm 2018 hoạt động chưa hiệu quả, một số doanh nghiệp giảm so cùng kỳ. Nguyên nhân là do giá bất động sản xu hướng tăng cao dẫn đến giao dịch thành công hợp đồng mua bán còn thấp; Nhiều dự án xây dựng do chủ đầu tư kinh doanh đất nền xây dựng nhà tiêu thụ chậm. Các hoạt động cho thuê tài sản, thuê đất của các doanh nghiệp kinh doanh hạ tầng khu công nghiệp giảm nhiều so cùng kỳ, do đang nghiên cứu dự án và tính toán đầu tư tại các khu công nghiệp.

Các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ, kinh doanh ăn uống, khách sạn nhà hàng đều tập trung nguồn hàng, đầu tư, triển khai các chương trình vui chơi giải trí phục vụ người dân. 

Một số đơn vị có doanh thu năm 2018 tăng so cùng kỳ như: Công ty Dược phẩm Đồng Nai ước thực hiện 119,3 tỷ đồng (+8,2%); Công ty Du Lịch Đồng Nai thực hiện 279,8 tỷ đồng (+11,1%); Công ty Xổ Số Kiết Thiết và Dịch vụ Đồng Nai ước thực hiện 3.490,3 tỷ đồng (+10,9%); Cty TNHH CP Xăng Đồng Nai ước thực hiện 1.908,6 tỷ đồng (+16,6%); Cty TNHH CP xăng dầu Tín Nghĩa ước thực hiện 2.910,5 tỷ đồng (+16,8%); Cty CP VLXD và chất đốt Đồng Nai ước thực hiện 999,4 tỷ đồng (+17%) so cùng kỳ.

- Kinh tế ngoài nhà nước ước đạt 147.359,8 tỷ đồng, chiếm 90,67% và tăng 12,17% so cùng kỳ. Đây là thành phần kinh tế phát triển mạnh trong các ngành nghề sản xuất kinh doanh. Số lượng doanh nghiệp và hộ kinh doanh cá thể ngành thương mại, dịch vụ không ngừng tăng lên; do thành lập mới doanh nghiệp và bổ sung hộ cá thể đã góp phần quan trọng trong sự tăng trưởng của khu vực này. Bên cạnh đó, khu vực này luôn năng động để tìm kiếm nguồn hàng, đổi mới phương thức kinh doanh nhằm phục vụ tốt nhu cầu của người tiêu dùng. 

- Kinh tế có vốn ĐTNN ước đạt 4.173,1 tỷ đồng, chiếm 2,57% và tăng 7,14% so cùng kỳ. Nguyên nhân tổng mức bán lẻ hàng hoá và dịch vụ của khu vực này tăng là do nhu cầu mua sắm hàng hoá phục vụ sinh hoạt tăng, các đơn vị kinh doanh bán lẻ khu vực này chủ yếu là các siêu thị đã được đầu tư mở rộng nâng cao chất lượng hàng hóa và dịch vụ phục vụ tốt cho người tiêu dùng. Đồng thời do nhu cầu phục vụ các ngày nghỉ cuối tuần và các dịp lễ, tết của người dân tăng nên nhu cầu mua sắm các loại hàng hóa thực phẩm tại các siêu thị tăng vì giá cả ổn định, không tăng nhiều so với các thành phần khác, vừa đảm bảo an toàn vệ sinh.  

Các doanh nghiệp khu vực có vốn ĐTNN kinh doanh dịch vụ, kinh doanh dịch vụ chơi golf nâng cao chất lượng phục vụ thu hút nhiều du khách trong nước và nước ngoài, góp phần làm tăng doanh thu so cùng kỳ. 

Tổng mức bán lẻ hàng hoá và dịch vụ năm 2018 chia theo ngành hoạt động:

- Doanh thu bán lẻ hàng hóa năm 2018 ước đạt 119.984,1 tỷ đồng, tăng 11,3% so cùng kỳ. Một số nhóm ngành chiếm tỷ trọng lớn và tăng khá so cùng kỳ như: Hàng may mặc tăng 15,2%; Đồ dùng, dụng cụ, trang thiết bị gia đình tăng 14%; Ô tô các loại tăng 16,2%; Gỗ và vật liệu xây dựng, tăng 13,4%; Phương tiện đi lại trừ ôtô tăng 14,3%; Đá quý, kim loại quý tăng 11,1%...

- Doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống ước đạt 14.650,1 tỷ đồng, tăng 12,3% so cùng kỳ. Trong đó dịch vụ lưu trú đạt 308,2 tỷ đồng, tăng 5,6%; dịch vụ ăn uống đạt 14.341,8 tỷ đồng, tăng 12,4%.

- Doanh thu du lịch lữ hành năm 2018 ước đạt 82,8 tỷ đồng, tăng 10,1% so cùng kỳ. UBND tỉnh ban hành Kế hoạch số 1374/KH-UBND ngày 06/02/2018 về phát triển du lịch Đồng Nai năm 2018. Do đó, công tác quản lý, kiểm tra các lễ hội trên địa bàn tỉnh được tập trung thực hiện nhằm chấn chỉnh, góp phần làm cho các hoạt động kinh doanh dịch vụ văn hoá, du lịch ổn định, trật tự hơn. Các hoạt động của ngành du lịch có những chuyển biến tích cực, có nhiều đổi mới, cụ thể: Phối hợp Công ty NetViet quay phim tuyên truyền với chủ đề “Khám phá du lịch Đồng Nai” tại các khu, điểm du lịch trên địa bàn tỉnh như: Khu du lịch Bửu Long, Làng Tre Việt, đảo Ó, đảo Đồng Trường, danh thắng quốc gia núi Chứa Chan, Bò Cạp Vàng, Suối Mơ... Các hoạt động dịch vụ du lịch ở các khu du lịch, điểm du lịch: Suối Mơ, Giang Điền, Thác Đá Hàn, Khu Du lịch Bửu Long, Vườn Xoài, Bò Cạp Vàng, Núi Chứa Chan... tiếp tục được quan tâm đầu tư về cải tạo cơ sở vật chất kỹ thuật và nâng cao chất lượng dịch vụ để thu hút du khách đến tham quan, vui chơi giải trí góp phần tăng doanh thu dịch vụ.

- Doanh thu dịch vụ khác ước đạt 27.798,1 tỷ đồng, tăng 12,1% so cùng kỳ. Trong đó: kinh tế tư nhân đạt 12.101,3 tỷ đồng, chiếm 43,5% và tăng 13,9%; kinh tế cá thể đạt 7.783,9 tỷ đồng, chiếm 28% và tăng 14,5% so cùng kỳ. Các ngành hoạt động lĩnh vực kinh doanh này khá hiệu quả, góp phần làm tăng tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ trên địa bàn, cụ thể như: Dịch vụ kinh doanh bất động sản đạt 7.675,1 tỷ đồng, tăng 8,3%; Dịch vụ y tế và hoạt động trợ giúp xã hội đạt 1.714,2 tỷ đồng, tăng 12,8%; Dịch vụ giáo dục và đào tạo đạt 1.828,6 tỷ đồng, tăng 11,2%; dịch vụ nghệ thuật, vui chơi giải trí đạt 5.542,6 tỷ đồng, tăng 13%; Dịch vụ hành chính và hỗ trợ đạt 2.854,1 tỷ đồng, tăng 10,7%;  Hoạt động chuyên môn khoa học công nghệ đạt 4.667,7 tỷ đồng, tăng 21,1%.

Tổng mức bán lẻ hàng hóa, dịch vụ năm 2018

Đơn vị tính: Tỷ đồng

 

Kế hoạch

2018

Dự ước

2018

Chính thức 2017

Cơ cấu 2018 (%)

Ước năm 2018 so

cùng kỳ

Tổng mức bán lẻ HH, DV

165.400

162.515,1

145.688,1

  100,00

111,55

- Nhà nước

10.982,2

10.420,5

      6,76

105,39

- Ngoài nhà nước

147.359,8

131.372,6

    90,67

112,17

- Khu vực có vốn ĐTNN

4.173,1

3.895,0

      2,57

107,14

Phân theo ngành hoạt động

 

- Thương nghiệp​

119.984,1

107.770,6

    73,83

111,33

- Khách sạn, nhà hàng

14.650,1

13.051,3

      9,01

112,25

- Du lịch, lữ hành

82,8

75,2

      0,05

110,06

- Dịch vụ

27.798,1

24.791,0

    17,11

112,13

b. Giá cả thị trường

* Chỉ số giá tiêu dùng: Tình hình diễn biến giá cả thị trường trên địa bàn tỉnh tháng 12 tương đối ổn định, giá cả một số mặt hàng có xu hướng giảm như xăng, dầu, gas... do nhà nước điều chỉnh giảm. Chỉ số giá tiêu dùng tháng 12/2018 so với tháng 11/2018 giảm 0,14% (khu vực thành thị giảm 0,16%; nông thôn giảm 0,12%); so với tháng 12 năm 2017 tăng 1,84%; so với tháng 12/2017 tăng 1,84%; Bình quân 11 tháng so cùng kỳ tăng 2,91%. 

Cụ thể ở các nhóm ngành chính như sau:

+ Nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 0,26% so tháng trước; tăng 4,22% so tháng 12 năm trước và bình quân cùng kỳ tăng 2,02%. Trong đó: Nhóm lương thực so tháng trước tăng 0,37%; so với tháng 12 năm trước giảm 1,72% và tăng 0,37% so bình quân cùng kỳ; Nhóm thực phẩm so tháng trước tăng 0,31%; so tháng 12/2017 tăng 6,71% và tăng 2,63% so bình quân cùng kỳ. Nguyên nhân tăng là do giá một số mặt hàng: gạo, thịt heo, rau tiếp tục tăng. 

+ Nhóm đồ uống và thuốc lá bằng 100% so tháng trước; tăng 0,08% so tháng 12/2017 và giảm 0,1% so bình quân cùng kỳ.

+ Nhóm may mặc, mũ nón, giày dép tăng 1,24% so tháng trước; tăng 4,48% so tháng 12/2017 và tăng 3,25% so bình quân cùng kỳ. Nguyên nhân tăng là tháng cuối năm có ngày lễ Nole và tết dương lịch và cũng chuẩn bị đón tết Nguyên đán nên nhu cầu mua sắm quần áo tăng hơn so với tháng trước.

+ Nhóm nhà ở, điện, nước, chất đốt và VLXD giảm 0,53% so tháng trước; giảm 1,04% so tháng 12/2017 và tăng 0,89% so bình quân cùng kỳ. Trong đó điện tăng 1,74%; nước tăng 1,27% so tháng trước. Tháng 12 là tháng bắt đầu vào mùa nắng nóng nên nhu cầu sử dụng điện và nước sạch của người dân tăng cao. Nhóm gas và các loại chất đốt khác giảm 9,5% so tháng trước; trong tháng giá dầu hỏa; giá gas giảm mạnh do ảnh hưởng của giá thế giới giảm; giá dầu hỏa giảm 8,72%; giá gas giảm 10,03%. Các mặt hàng VLXD như sắt, thép, xi măng tăng nhẹ do chi phí vận chuyển và nhu cầu xây dựng tăng.

+ Nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,07% so tháng trước; tăng 0,5% so tháng 12/2017 và tăng 0,93% so bình quân cùng kỳ. Do nhu cầu mua sắm các mặt hàng thiết yếu của người dân tăng nên giá các mặt hàng của nhóm này cũng tăng lên đáng kể.

+ Nhóm thuốc và dịch vụ y tế tăng 6% so tháng trước, tăng 0,84% so tháng 12/2017 và tăng 16,06% so bình quân cùng kỳ. Trong tháng 12 thực hiện theo Thông tư số 39/2018/TT/BYT của Bộ Y tế ngày 30/11/2018 về việc điều chỉnh tăng giá các dịch vụ y tế khám chữa bệnh, làm cho chỉ số giá nhóm này tăng cao, cụ thể: Khám bệnh ngoại trú tăng 4,69%; khám nội trú tăng 11,92%.

+ Nhóm giao thông giảm 5,23% so tháng trước; tăng 0,16% so tháng 12 năm trước và tăng 7,61% so bình quân cùng kỳ. Trong tháng giá các mặt hàng xăng, dầu giảm do ảnh hưởng của giá xăng, dầu thế giới.

+ Các nhóm còn lại có chỉ số giá tăng, giảm không nhiều, so tháng trước nhóm bưu chính viễn thông tăng 0,06%; nhóm giáo dục tăng 0,02%; nhóm văn hóa giải trí và du lịch bằng tháng trước; nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tăng 0,15%.

2018-Chi so gia-122018.jpg

* Chỉ số giá vàng tháng 12/2018 so với tháng trước tăng 2,39%; so với tháng 12 năm trước tăng 0,62%; bình quân cùng kỳ tăng 3,03%. 

* Chỉ số giá đô la Mỹ tháng 12/2018, giảm 0,01% so tháng trước; tăng 2,03% so với tháng 12 năm trước; bình quân cùng kỳ tăng 0,98%.

c. Xuất, nhập khẩu hàng hóa

- Xuất khẩu:

Năm 2018 công tác xúc tiến thương mại tiếp tục đẩy mạnh để nâng cao năng lực hội nhập, hoạt động xuất khẩu khai thác hiệu quả thị trường truyền thống: Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Châu Âu và tận dụng lợi thế từ hiệp định thương mại tự do đã ký kết và Cộng đồng Kinh tế ASEAN để mở rộng; tăng sản lượng xuất khẩu phát triển các thị trường mới như Venezuela; Chi lê… 

Ước kim ngạch xuất khẩu tháng 12/2018 trên địa bàn đạt 1.736 triệu USD, tăng 0,7% so tháng trước. Là tháng cuối năm 2018 nên tình hình sản xuất của các doanh nghiệp càng khẩn trương, các đơn hàng gấp rút hoàn thành để nhận thêm các đơn hàng mới.

Ước kim ngạch xuất khẩu năm 2018 trên địa bàn đạt 18.633,7 triệu USD, tăng 11,85% so cùng kỳ. Trong đó: Kinh tế nhà nước đạt 226,9 triệu USD, tăng 7%; Kinh tế ngoài nhà nước đạt 2.543,4 triệu USD, tăng 20,8%; Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đạt 15.863,3 triệu USD, tăng 10,6% so cùng kỳ.

Một số ngành hàng xuất khẩu chủ lực của tỉnh năm 2018

+ Hàng dệt may: Ước đạt 1.990,3 triệu USD, tăng 5,5% so cùng kỳ. Nguyên nhân là do năm 2018 các chính sách của Chính phủ để doanh nghiệp tiếp cận được nguồn vốn hỗ trợ trong sản xuất đã có hiệu quả. Các doanh nghiệp may mặc vẫn tiếp tục duy trì được tốt các mặt hàng may mặc xuất khẩu truyền thống như áo thun, áo jacket và tìm kiếm thêm được một số thị trường mới…

+  Giày, dép các loại: Ước đạt 3.701,2 triệu USD tăng 9,6%. Giày, da luôn là mặt hàng xuất khẩu thế mạnh của tỉnh; mặt hàng này luôn có thị trường xuất khẩu ổn định nhờ sự phân phối của các công ty mẹ ở nước ngoài làm cho kim ngạch xuất khẩu của mặt hàng này luôn tăng. Các doanh nghiệp sản xuất giày dép xuất khẩu sang hơn 30 quốc gia trên thế giới. Thị trường xuất khẩu chủ yếu là Hoa Kỳ, Liên minh châu Âu (EU)... 

+ Sản phẩm máy móc, thiết bị phụ tùng: Ước đạt 1.515,2 triệu USD, tăng 25,9%. Nguyên nhân giá các mặt hàng sắt thép tương đối ổn định nên các sản phẩm máy móc thiết bị phụ tùng không có biến động nhiều về giá cả bên cạnh đó các công ty nhập khẩu mặt hàng này lại có xu hướng tăng.

+ Sản phẩm Xơ, sợi dệt các loại: Ước đạt 1.558,9 triệu USD, tăng 10,6%. Nguyên nhân tăng là do nhu cầu sử dụng nguyên liệu này nhiều đã làm cho giá mặt hàng này tăng lên.

+ Đối với mặt hàng nông sản: Giá xuất khẩu các mặt hàng nông sản vẫn ở mức thấp, do sản lượng dự trữ trên thế giới dồi dào; do ảnh hưởng của tình hình thế giới đặc biệt là cuộc chiến thương mại giữa Trung Quốc và Mỹ làm cho giá của các mặt hàng này giảm như: giá cà phê giá hiện đang ở mức 1.682 USD/tấn, giảm 11,5%; hạt điều giá đang ở mức 7.928 USD/tấn, giảm 18,8%; giá hạt tiêu vẫn là mặt hàng giảm mạnh nhất hiện chỉ còn 3.055 USD/tấn, giảm 34,7% so cùng kỳ.

2018-Xuat nhap khau-122018.jpg

Nhìn chung thị trường xuất khẩu năm 2018 có những thuận lợi đáng kể, do thị trường xuất khẩu tiếp tục ổn định, giá xuất khẩu sản phẩm chủ lực tăng, sản lượng xuất khẩu nhiều mặt hàng chủ lực tăng trưởng cao so cùng kỳ như: ngành dệt may; hàng giày dép, sản phẩm điện tử, máy móc thiết bị, sắt thép sản phẩm chất dẻo, xơ sợi dệt các loại… Các thị trường truyền thống như: Trung Quốc, Hoa Kỳ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Bỉ, Đức, Nga… tiếp tục phát triển.

- Nhập khẩu:

 Ước kim ngạch nhập khẩu tháng 12 năm 2018 đạt 1.415,5 triệu USD, tăng 2,5% so tháng trước. Dự ước cả năm 2018 đạt 15.961,9 triệu USD, tăng 10% so cùng kỳ. Trong đó: Kinh tế nhà nước đạt 117 triệu USD, tăng 4,4%; Kinh tế ngoài nhà nước đạt 2.213,4 triệu USD, tăng 16%; Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đạt 13.631,5  triệu USD, tăng 9,1%. 

Kim ngạch nhập khẩu năm 2018 tăng khá so cùng kỳ là do xuất khẩu thuận lợi, các doanh nghiệp đẩy mạnh sản xuất phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng nên cần nhiều nguyên liệu để sản xuất, trong khi đó nguyên liệu trong nước chưa đáp ứng đủ nhu cầu cho sản xuất nên các doanh nghiệp nhập nguyên liệu thêm từ nước ngoài. Cụ thể một số mặt hàng nguyên liệu có lượng nhập tăng như: 

+ Thức ăn gia súc và nguyên liệu: Ước đạt 770,2 triệu USD, tăng 25,5% so cùng kỳ. Nguyên nhân là do những tháng cuối năm 2018 tình hình chăn nuôi trong nước đã ổn định; người dân tiếp tục tái đàn để chăn nuôi nên nhu cầu sử dụng thức ăn gia súc trong chăn nuôi ngày càng; các doanh nghiệp sản xuất thức ăn gia súc tập trung nhập nguyên liệu để sản xuất. 

+ Cao su: Ước kim ngạch nhập khẩu năm 2018 đạt 77 ngàn tấn, so với cùng kỳ tăng 14,4% về lượng và tăng 8,98% về giá trị. Năm 2018 giá mặt hàng cao su bình quân tăng so với năm 2017 làm cho giá trị nhập khẩu trong nước của mặt hàng này tăng.

+ Bông các loại: Ước kim ngạch nhập khẩu đạt 374 ngàn tấn, so với cùng kỳ tăng 11,9% về lượng và tăng 18,8% về giá trị.

+ Xơ, sợi dệt các loại: Ước đạt 222 ngàn tấn, so cùng kỳ tăng 9,95% về lượng và tăng 25,9% về trị giá. Nguyên nhân là do hiện nay cuộc chiến thương mại giữa Mỹ và trung Quốc vẫn ngày càng cao làm cho việc sản xuất các nguyên liệu này từ Trung Quốc giảm mạnh. Bên cạnh đó nhu cầu sử dụng nguyên vật liệu bông; xơ, dệt sợi trong sản xuất tăng cao làm cho giá thành nhập khẩu các mặt hàng này tăng; hiện giá mặt hàng xơ, sợi ở mức 2.526 USD/tấn, tăng 17,46% so với cùng kỳ.

  +Các mặt hàng nhập khẩu chủ yếu trong năm: Máy móc thiết bị đạt 1.710 triệu USD, tăng 6,9% và chiếm 10,7% kim ngạch nhập khẩu; Hóa chất đạt 1.430 triệu USD, tăng 17,4% và chiếm 9%; Chất dẻo đạt 1.483,9 triệu USD, tăng 23,9% và chiếm 9,2%...

Kết quả xuất nhập khẩu dự ước cả năm như trên giá trị xuất siêu của tỉnh ngày càng tăng, năm 2018 dự ước giá trị xuất siêu đạt 2.672 triệu USD.

d. Giao thông vận tải 

Để đảm bảo an toàn và phục vụ tốt nhu cầu vận chuyển vật tư, hàng hóa và đi lại của người dân. Từ đầu năm đến nay, UBND tỉnh và Ban An toàn giao thông tỉnh đã chỉ đạo quyết liệt công tác bảo đảm trật tự an toàn giao thông. Đồng Nai đã triển khai thực hiện nghiêm tinh thần chỉ đạo tại Chỉ thị số: 18-CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác bảo đảm trật tự an toàn giao thông đường bộ, đường sắt, đường thủy nội địa và khắc phục ùn tắc giao thông. Đổi mới nâng cao chất lượng hoạt động và phòng chống tiêu cực trong công tác Đăng kiểm, tập trung quản lý phương tiện thủy bộ cũng như tăng cường công tác kiểm tra, xử lý tình trạng vận chuyển hàng hóa quá khổ, quá tải và các hành vi vi phạm khác. Do đó, hoạt động vận tải trên địa bàn tỉnh năm 2018 tương đối ổn định, nhu cầu vận tải hàng hóa và hành khách lưu thông chuyển biến tích cực, các ngành sản xuất công nghiệp phát triển nên nhu cầu vận tải và dịch vụ vận tải tăng góp phần tăng doanh thu vận tải.

2018-Giao thong van tai.jpg

- Vận chuyển hàng hóa: Ước sản lượng vận chuyển hàng hóa tháng 12/2018 đạt 4.560,6 ngàn tấn, tăng 0,88%; luân chuyển hàng hóa đạt 305.487 ngàn tấn.km, tăng 0,95% so tháng trước. 

Dự ước quý IV/2018 đạt 13.575,4 ngàn tấn, tăng 0,06% so quý trước và tăng 7,33% so cùng kỳ; Luân chuyển đạt 909.618,6 triệu tấn.km, giảm 0,06% so quý trước và tăng 7,08% so cùng kỳ.

Dự ước cả năm vận chuyển hàng hóa đạt 53.653 ngàn tấn, tăng 6,18%; luân chuyển đạt 3.607.176 ngàn tấn.km, tăng 6,22% so cùng kỳ. Trong đó: Đường bộ đạt 52.195 ngàn tấn vận chuyển, tăng 6,27% và 3.359.688 ngàn tấn.km luân chuyển, tăng 6,5%; đường sông đạt 1.458 ngàn tấn vận chuyển, tăng 3,1% và 247.488 ngàn tấn.km luân chuyển, tăng 2,56%. 

Ước doanh thu vận tải hàng hóa tháng 12/2018 đạt 568,1 tỷ đồng, tăng 1,4% so  tháng trước. Dự ước quý IV/2018 đạt 1.666,3 tỷ đồng, tăng 12,3% so quý trước và tăng 11,97% so cùng kỳ. Cộng dồn cả năm đạt 5.949,2 tỷ đồng, tăng 11,69% so cùng kỳ. 

- Vận chuyển hành khách: Ước sản lượng vận tải hành khách tháng 12/2018 đạt 8.797 ngàn hành khách, tăng 0,63%; luân chuyển đạt 555.160 ngàn hành khách.km, tăng 0,69% so tháng trước. 

Dự ước quý IV/2018 đạt 26.327 ngàn hành khách, tăng 1,75% so quý trước và tăng 6,06% so cùng kỳ; Luân chuyển đạt 1.656.845 triệu hành khách.km, tăng 0,15% so quý trước và tăng 6,2% so cùng kỳ.

Dự ước cả năm 2018 vận chuyển hành khách đạt 103.797 ngàn hành khách, tăng 6,02%; luân chuyển hành khách đạt 6.615.170 ngàn hành khách.km, tăng 6,11% so cùng kỳ. Trong đó: Đường bộ đạt 100.682 ngàn hành khách vận chuyển, tăng 6,15% và 6.612.931 ngàn hành khách.km luân chuyển, tăng 6,11%; đường sông đạt 3.115 ngàn hành khách vận chuyển, tăng 1,89% và 2.239 ngàn hành khách.km luân chuyển, tăng 2,72%. 

Ước doanh thu vận tải hành khách tháng 12 đạt 260,9 tỷ đồng, tăng 1,02% so tháng trước. Dự ước quý IV/2018 đạt 762,9 tỷ đồng, tăng 11,6% so cùng kỳ. Dự ước cả năm đạt 2.756,8 tỷ đồng, tăng 12,4% so cùng kỳ. 

Nhìn chung, hoạt động vận tải hành khách năm 2018 tăng khá cao so với năm 2017 cả về sản lượng và doanh thu, là do giao thông ngày càng đ¬ược mở rộng là điều kiện thuận lợi để phát triển ph¬ương tiện vận tải đ¬ường bộ, tạo điều kiện thuận lợi cho việc lưu thông và  đi lại của hành khách nhất là ở vùng sâu vùng xa, vùng đồng bào dân tộc. Bên cạnh đó, các đơn vị kinh doanh vận tải hành khách không ngừng tu sửa và mua sắm thêm phương tiện, duy trì và mở thêm luồng tuyến mới, phong cách phục vụ ngày càng nâng cao và lịch sự hơn cũng góp phần làm tăng sản lượng vận chuyển hành khách.

- Doanh thu hoạt động kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải tháng 12/2018 đạt 367,1 tỷ đồng, tăng 2% so tháng trước. Dự ước cả năm 2018 đạt 4.763,8 tỷ đồng, tăng 22,7% so cùng kỳ.

- Khối lượng hàng hóa thông qua cảng tháng 12/2018 đạt 676,2 ngàn tấn, tăng 1,65% so tháng trước, trong đó: Hàng nhập khẩu đạt 211,3 ngàn tấn, hàng xuất khẩu 249,4 ngàn tấn, hàng  nội địa 215,5 ngàn tấn. Ước năm 2018 sản lượng đạt 7.822 ngàn tấn, so cùng kỳ tăng 6,68%. Riêng tại công ty Cảng Đồng Nai đạt 6.097,6 ngàn tấn, tăng 7,15% so cùng kỳ.

7. Bưu chính viễn thông

Dự ước doanh thu bưu chính – viễn thông quý IV/2018 đạt 1.624 tỷ đồng, tăng 2% so quý trước. Dự ước cả năm 2018 đạt 6.275,8  tỷ đồng, tăng 5,7% so cùng kỳ, trong đó: doanh thu bưu chính đạt 634,7 tỷ đồng, tăng 6,4%; doanh thu viễn thông đạt 5.641,2 tỷ đồng, tăng 5,7%. 

Số máy điện thoại phát triển mới quý IV/2018 ước đạt 226.523 thuê bao, giảm 0,2% so quý trước. Số máy điện thoại phát triển mới năm 2018 ước đạt 911.518 thuê bao điện thoại, giảm 4,6% so cùng kỳ. Trong đó, 3.223 thuê bao cố định, giảm 23,8% so cùng kỳ và 908.295 thuê bao di động, giảm 4,5% so cùng kỳ.

Số thuê bao Internet phát triển mới năm 2018 là 89.070 thuê bao, tăng 7,3% so cùng kỳ.

8. Đầu tư phát triển

Năm 2018 tình hình thực hiện vốn đầu tư phát triển trên địa bàn tăng trưởng khá. Thu hút đầu tư trong và ngoài nước tăng, các doanh nghiệp chú trọng đầu tư mở rộng quy mô sản xuất, bên cạnh đó tỉnh đẩy mạnh đầu tư cơ sở hạ tầng, các công trình trọng điểm về hạ tầng giao thông được chú trọng triển khai thực hiện; khu vực dân doanh tiếp tục có sự phát triển nhanh tăng cao. Tình hình tình hình thực hiện vốn đầu tư trong quý IV và năm 2018 như sau:

Dự ước Vốn đầu tư thực hiện trên địa bàn tỉnh Đồng Nai quý IV/2018 thực hiện 26.615 tỷ đồng, tăng 19,8% so quý trước và tăng 18,8% so quý cùng kỳ. Dự ước cả năm 2018 thực hiện 79.903,6 tỷ đồng, tăng 12,8% so cùng kỳ. Tình hình thực hiện các nguồn vốn như sau:

2018-Von dau tu-122018.jpg

- Vốn đầu tư do địa phương quản lý: Ước quý IV năm 2018 thực hiện 3.085,7 tỷ đồng, tăng 39,8% so quý trước; giảm 17,6% so cùng quý năm trước. Dự ước cả năm thực hiện 9.540,8 tỷ đồng, giảm 6% so cùng kỳ. Trong đó: 

+ Nguồn vốn ngân sách nhà nước tăng 25,98% so với cùng kỳ. Nguyên nhân nguồn vốn tăng cao so cùng kỳ là do trong năm trên địa bàn tỉnh có nhiều dự án lớn triển khai thực hiện như: Nút giao thông hầm chui Tân Hiệp, Dự án nạo vét suối máu; Dự án cải tạo kênh mương, chống ngập nội ô Thành phố Biên Hòa…

+ Nguồn vốn huy động các doanh nghiệp nhà nước: Ước quý IV thực hiện 60 tỷ đồng, tăng 14,2% so với quý trước và bằng 8% so cùng quý năm trước. Dự ước năm 2018 thực hiện 1.229 tỷ đồng, bằng 57,5% so cùng kỳ. Nguồn vốn đầu tư thực hiện của doanh nghiệp nhà nước giảm mạnh do doanh nghiệp cổ phần hoá và các doanh nghiệp có vốn nhà nước dưới 100% chuyển sang doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Do đó cơ cấu về số lượng doanh nghiệp và nguồn vốn đầu tư của loại hình doanh nghiệp nhà nước có sự biến động lớn nên giảm mạnh so cùng kỳ.

- Nguồn vốn thuộc khu vực ngoài quốc doanh: Ước quý IV thực hiện 11.637,2 tỷ đồng, so quý trước tăng 17,4%; so quý cùng kỳ tăng 49,3%. Ước năm 2018 thực hiện 32.487,5 tỷ đồng, so cùng kỳ tăng 25,2%. Đây là khu vực có tốc độ tăng đầu tư khá so với các thành phần kinh tế khác trên địa bàn. Năm nay do tình hình kinh tế phát triển đầu tư của khu vực này có nhiều chuyển biến tích cực, đáng kể nhất là việc chú trọng đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh, đầu tư xây mới, sửa chữa nhà xưởng và mua sắm máy móc thiết bị phục vụ sản xuất đã góp phần làm cho tổng mức đầu tư trên địa bàn tăng khá so cùng kỳ.

- Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài: Dự ước quý IV/2018 thực hiện 11.641 tỷ đồng, tăng 18,2% so quý trước và tăng 20% so quý cùng kỳ. Uớc năm 2018 thực hiện 35.846,9 tỷ đồng, tăng 14,8% so với so cùng. 

Đây là khu vực có tỷ trọng vốn đầu tư chiếm cao nhất trong tổng số (chiếm 45%). Chủ yếu tập trung đầu tư các dự án mới cấp phép ở các khu công nghiệp đầu tư vào cơ sở hạ tầng và các công trình xây dựng cơ bản. Bên cạnh đó các doanh nghiệp mới đầu tư đã đi vào hoạt động đầu tư cho việc mở rộng quy mô sản xuất theo kế hoạch nên tình hình đầu tư ở khu vực này có mức tăng khá so cùng kỳ. Một số ngành sản xuất có mức đầu tư trong quý IV/2018 tăng khá như: Công Ty Trách Nhiệm Hữu Hạn Bosch Việt Nam: 223,4 tỷ đồng; Công ty TNHH Formosa: 97 tỷ đồng; Công ty Cao Su Kenda Việt Nam: 83,7 tỷ đồng; Công ty TNHH Ci Bao: 57,5 tỷ đồng; Công ty TNHH Cargill Viet Nam thực hiện 31,1 tỷ đồng; Công ty TNHH Hyosung: 22,5 tỷ đồng; Công ty CP Thiết Bị Vệ Sinh Caesar Vn: 20,7 tỷ đồng; Công ty Chang Shin Vn: 22 tỷ đồng; Công ty TNHH Dongjin Textile Vina: 15,1 tỷ đồng;…

9. Thu hút đầu tư 

- Tổng vốn đăng ký cấp mới và dự án tăng vốn Đầu tư trực tiếp của nước ngoài (FDI) dự ước đến ngày 31/12/2018 đạt 1.850 triệu USD, đạt 185% so kế hoạch năm, tăng 2,7% so cùng kỳ. Trong đó cấp mới 106 dự án với tổng vốn đăng ký 980 triệu USD và 92 dự án tăng vốn 870 triệu USD. Dự kiến giải ngân năm 2018, đạt 1.600 triệu USD (tương đương 37.400 tỷ đồng), đạt 160% so với dự kiến giải ngân cả năm. 

- Tổng vốn đầu tư trong nước năm 2018 đăng ký cấp giấy chứng nhận đầu tư, chủ trương đầu tư và điều chỉnh tăng vốn là 27.000 tỷ đồng, bằng 95,6% so cùng kỳ, trong đó: 76 dự án cấp mới, tăng 10,14% so cùng kỳ với vốn đăng ký 25.500 tỷ đồng (trong đó dự án Khu đô thị du lịch sinh thái của Công ty CP Đầu tư và Kinh doanh Golf Long Thành tại thành phố Biên Hòa với tổng vốn đăng ký là 4.950 tỷ đồng, chiếm khoảng 18,3% tổng vốn) và 21 dự án điều chỉnh tăng vốn, tăng 5% so cùng kỳ với tổng vốn bổ sung 1.500 tỷ đồng. Tổng vốn đầu tư trong nước trên địa bàn tỉnh đạt thấp so với cùng kỳ, nguyên nhân do gặp nhiều khó khăn, vướng mắc về các qui định theo Luật, văn bản hướng dẫn Luật giữa Luật Đầu tư và Luật chuyên ngành.

- Phát triển doanh nghiệp dân doanh: Số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới ước đạt 3.500 doanh nghiệp, tăng 4% so với cùng kỳ, tổng vốn đăng ký ước đạt 30.405 tỷ đồng.

Triển khai thực hiện đăng ký doanh nghiệp qua mạng và trả kết quả tại nhà: ước cả năm có 8.908 lượt doanh nghiệp đăng ký trên cổng thông tin đăng ký doanh nghiệp quốc gia, 1.138 doanh nghiệp đăng ký trả kết quả tại nhà.

Về tình hình giải thể doanh nghiệp: Dự ước năm 2018 có 250 doanh nghiệp giải thể với số vốn trên 2.100 tỷ đồng. Các doanh nghiệp này, chủ yếu là doanh nghiệp nhỏ và vừa và thuộc khu vực kinh tế tư nhân chủ yếu là do kinh doanh không hiệu quả.

10. Công tác ngoại vụ

- Công tác quản lý Đoàn ra, Đoàn vào: tính đến ngày 19/10/2018, tỉnh Đồng Nai giải quyết 1.002 hồ sơ đoàn ra gồm 1.349 lượt cán bộ, công chức, viên chức, tăng 301 đoàn và chiếm tỷ lệ 43% so với cùng kỳ; giải quyết 128 hồ sơ đoàn nước ngoài vào làm việc tại tỉnh, gồm 707 lượt người nước ngoài đến từ 21 quốc gia trên thế giới, giảm 07 đoàn và chiếm tỷ lệ 5,2% so cùng kỳ; xem xét chấp thuận cho 45 doanh nhân thuộc 31 doanh nghiệp được sử dụng thẻ ABTC, xử lý 47 vụ việc lãnh sự có liên quan đến yếu tố nước ngoài.

- Công tác Hợp tác quốc tế: Tỉnh ký kết hợp tác thành công với 02 địa phương nước ngoài mới có tiềm năng gồm: tỉnh Ehime – Nhật Bản và tỉnh Đông Flanders – Vương quốc Bỉ; tổ chức Đoàn công tác của tỉnh Đồng Nai đi tham dự Hội nghị Hợp tác Kinh tế giữa Hàn Quốc và chính quyền các địa phương Châu Á năm 2018 tại Trung tâm Hội nghị và triển lãm Changwon và Đoàn đi thăm và làm việc với Nghị viện tỉnh Gyeongnam...

11. Một số tình hình xã hội

a. Dân số, lao động: Ước tính dân số trung bình toàn tỉnh năm 2018  là 3.086.066 người, tăng 1,94% so cùng kỳ. Trong đó: nam là 1.490.210 người, nữ là: 1.595.856 người; thành thị: 1.098.742 người, nông thôn là 1.966.704 người.

Tổng số lao động đang làm việc trong các ngành kinh tế ước năm 2018 là 1.887,6 nghìn người, tăng 3,77% so cùng kỳ.

2018-Xa hoi-122018.jpg

b. Lĩnh vực văn hóa và thể thao

Năm 2018, các hoạt động văn hoá, thể thao thu được nhiều kết quả tốt đẹp. Nhiều hoạt động với qui mô lớn, đạt chất lượng cao, phục vụ nhiệm vụ chính trị, kỷ niệm các ngày lễ lớn với nhiều hình thức phong phú, đa dạng, thực hiện có hiệu quả trên các lĩnh vực hoạt động đáp ứng với yêu cầu, nhiệm vụ được giao. Toàn ngành tập trung công tác tuyên truyền các Nghị quyết của tỉnh, tổ chức tốt các hoạt động văn hóa, thể thao, du lịch chào mừng kỷ niệm các ngày lễ lớn của đất nước; Tổ chức kỷ niệm 320 năm hình thành và phát triển Biên Hòa - Đồng Nai. Các địa phương tăng cường công tác tuyên truyền lưu động, tổ chức các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao chào mừng các ngày lễ kỷ niệm trong năm... các hoạt động đã góp phần nâng cao đời sống văn hoá - tinh thần trong nhân dân và thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.

- Hoạt động biểu diễn nghệ thuật: Các đơn vị nghệ thuật của ngành thường xuyên hưởng ứng và thực hiện tốt vai trò, nhiệm vụ được Đảng, Nhà nước giao, đồng thời tiến hành thực hiện những chương trình hoạt động theo kế hoạch. Trong năm 2018, các đơn vị nghệ thuật của ngành đã tổ chức khoảng 305 buổi biểu diễn văn nghệ phục vụ lễ lớn, phục vụ chính trị, cũng như phục vụ nhân dân vùng sâu, vùng xa, công nhân các cụm, khu công nghiệp với số lượng khoảng 200.000 lượt người xem. 

+ Công tác bảo tồn, bảo tàng: Thường xuyên mở cửa phòng triển lãm, phòng trưng bày phục vụ các đoàn khách tham quan trong và ngoài nước, các đoàn học sinh, sinh viên đến nghiên cứu và học tập. Trong năm 2018, Bảo tàng tỉnh đón 38.000 lượt người đến tham quan, nghiên cứu; Thực hiện 04 cuộc triển lãm cơ sở với các chủ đề: “Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam - Những bằng chứng lịch sử và pháp lý” và “Việt Nam - 54 dân tộc một cội nguồn” tại thị xã Long Khánh, huyện Tân Phú và huyện Xuân Lộc, đạt 133% kế hoạch năm; Khảo sát, thực hiện điền dã sưu tầm 63/63 hiện vật mới của các đề tài sau: kỷ vật kháng chiến; xưởng Z.302 phòng Kỹ thuật BCH quân sự Đồng Nai; Mẹ Việt Nam anh hùng ở Đồng Nai...

- Phong trào Toàn dân Đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa: Trong năm 2018 trên địa bàn tỉnh có 100% (962/962) ấp, khu phố đăng ký xây dựng ấp, khu phố văn hóa; có 744.569/744.944 hộ đăng ký xây dựng gia đình văn hóa, đạt tỷ lệ 99,94%; 100% xã, phường, thị trấn đăng ký xây dựng xã, phường, thị trấn làm tốt công tác phòng, chống tệ nạn ma túy, mại dâm; có 1.458/1.458 cơ quan, đơn vị đăng ký “Đạt chuẩn văn hóa” (đạt 100%); 1.481/1.481 doanh nghiệp đăng ký “Đạt chuẩn văn hóa” (đạt 100%). 

Dự ước kết quả năm 2018 có 932/962 ấp, khu phố đạt chuẩn văn hóa, đạt tỷ lệ 96,88% (vượt so với chỉ tiêu NQ đề ra: trên 90%); Có 625.867/632.703 hộ đạt chuẩn gia đình văn hóa, đạt tỷ lệ 98,92%; Có 75% doanh nghiệp đạt chuẩn văn hóa (NQ: 72%). Thông qua Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”, công tác xây dựng nếp sống văn hóa và gia đình đã góp phần xây dựng và phát triển văn hóa, con người Đồng Nai đáp ứng nhu cầu phát triển bền vững của đất nước.

c. Thể dục thể thao

Trong năm 2018, Trung tâm Huấn luyện và Thi đấu Thể dục thể thao đã phối hợp tổ chức 03 sự kiện thể thao trong nước và quốc tế, 04 giải quốc gia, 21 giải tỉnh trong khuôn khổ ĐH TDTT tỉnh, 01 giải cụm, đồng thời đã tích cực hỗ trợ các ban, ngành, địa phương trong tỉnh tổ chức tốt các hoạt động thi đấu, giao lưu giữa các đơn vị và thực hiện tốt công tác phục vụ hoạt động kỷ niệm các ngày lễ lớn, các sự kiện chính trị trọng đại.

Nổi bật là công tác phối hợp tổ chức tốt 02 sự kiện thể thao quốc tế, đăng cai tổ chức thành công 4 giải thể thao quốc gia tại Đồng Nai, được Tổng cục TDTT và các Liên đoàn thể thao quốc gia đánh giá cao công tác phối hợp và năng lực tổ chức của địa phương nói chung và ngành nói riêng. 

d. Giáo dục – đào tạo

- Tình hình trường, lớp học: Năm học 2018 - 2019, toàn tỉnh có 898 trường mầm non và phổ thông, tăng thêm 29 trường so với năm học 2017 – 2018, trong đó: 27 trường mầm non tư thục và 02 trường tư thục có cấp học THPT). Sau khi sắp xếp, hợp nhất, sát nhập các trường mầm non, tiểu học, THCS, nâng cấp trường phổ thông thành nhiều cấp học, số lượng trường các cấp học như sau: 345 trường mầm non, mẫu giáo, 302 trường tiểu học, 176 trường có cấp học THCS, 75 trường có cấp học THPT.

Hệ thống trường, nhóm lớp mầm non ngoài công lập tiếp tục ổn định và phát triển với 1.305 cơ sở giáo dục. Trong đó, có 120 trường mầm non tư thục, 1.167 nhóm lớp độc lập tư thục đã được cấp phép hoạt động, 5 trường tiểu học, 01 trường TH -THCS, 04 trường THCS - THPT, 12 trường TH -THCS -THPT, 08 trường THPT.

- Tình hình giáo viên: Dự kiến năm học 2018 - 2019 toàn ngành là: 31.926, dự kiến khối huyện giảm 551 biên chế, tăng 58 hợp đồng. Hiện nay, các cơ sở giáo dục, các địa phương đang tiến hành thuyên chuyển, tiếp nhận, tuyển dụng giáo viên đợt 1 năm học 2018 - 2019.

- Tình hình học sinh: Theo kế hoạch năm học 2018 - 2019, tổng số học sinh mầm non và phổ thông là 700.000 học sinh, tăng 20.100 học sinh so với năm học 2016 – 2017 (+3%); số học sinh tăng chủ yếu ở các bậc học gồm mầm non tăng 10.528 học sinh (+6%), trung học cơ sở tăng 7.545 học sinh (+5%); riêng bậc trung học phổ thông có xu hướng tăng nhẹ; các địa phương tăng học sinh tập trung chủ yếu là các địa bàn có nhiều khu công nghiệp. 

Kết quả kỳ thi trung học phổ thông quốc gia năm 2017 – 2018 và thi tuyển sinh lớp 10 năm học 2018 – 2019 đảm bảo an toàn, đúng quy chế. Trong đó: Số học sinh tốt nghiệp trung học phổ thông (không tính thí sinh tự do), đạt tỷ lệ 97,03%; tỷ lệ học sinh hệ giáo dục phổ thông tốt nghiệp đạt tỷ lệ 99,2% và học viên hệ giáo dục thường xuyên tốt nghiệp đạt tỷ lệ 81,01%. 

Đẩy mạnh thực hiện xã hội hóa giáo dục để phát triển quy mô trường lớp, học sinh, đáp ứng nhu cầu học tập của xã hội: tính đến cuối năm học 2017 – 2018, tỷ lệ học sinh ngoài công lập: Mầm non 56,63% (so với cùng kỳ tăng 4,79%), tiểu học 2,37% (so với cùng kỳ tăng 0,15%), THCS 3,77% (so với cùng kỳ giảm 0,25%), THPT 29,56% (so với cùng kỳ tăng 0,25%).

Tăng cường xây dựng trường học đạt chuẩn quốc gia đáp ứng yêu cầu đổi mới, nâng cao chất lượng giáo dục, mục tiêu xây dựng nông thôn mới. Kết quả, đến nay: Mầm non 122/225 trường, tỷ lệ 54,22% (so với cùng kỳ năm trước tăng 16 trường, tăng 7,11%); tiểu học 145/293 trường, tỷ lệ 49,49% (so với cùng kỳ năm trước tăng 14 trường, tăng 5,53%); THCS 112/175 trường, tỷ lệ 64,00% (so với cùng kỳ năm trước tăng 23 trường, tăng 12,85%); THPT 26/47 trường, tỷ lệ 55,32% (so với cùng kỳ năm trước tăng 08 trường, tăng 17,02%).

e. Y tế và chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân

Năm 2018 ngành Y tế thực hiện triển khai kịp thời các Nghị quyết, chỉ thị của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước về công tác phòng, chống dịch bệnh. Tiếp tục triển khai đồng bộ các biện pháp tích cực phòng, chống dịch bệnh, nhất là bệnh Sởi, Sốt xuất huyết, Tay chân miệng; tăng cường giám sát tình hình dịch Sởi, Sốt xuất huyết, Tay chân miệng trên địa bàn, phun hóa chất trên diện rộng. Tình hình dịch bệnh như sau:

- Sốt xuất huyết: Trong tháng 12/2018 ghi nhận mắc 1.019 trường hợp nội trú, giảm 13,6% so tháng trước. So với tháng trước: Số trường hợp mắc giảm ở 10/11 huyện. Trong đó giảm nhiều nhất tại Nhơn Trạch, Long Khánh và Thống Nhất. Số ca mắc cộng dồn đến tháng 12 là 5.839 trường hợp nội trú, tăng 15,2% so cùng kỳ (+5.067 trường hợp); ghi nhận 1.270 trường hợp ngoại trú. Tử vong 02 trường hợp, giảm 01 trường hợp so với cùng kỳ.

Hoạt động xử lý ổ dịch: Tổng số ổ dịch sốt xuất huyết Dengue được xác định và xử lý trong tháng 12/2018 là 166/178 ổ dịch đạt 93%. Số ổ dịch phát hiện giảm 37% so tháng trước (-283 ổ dịch). Cộng dồn đến tháng 12/2018 là 1.401 ổ dịch được xử lý/1.414 ổ dịch phát hiện, đạt 99%. 

- Cúm A (H5N1), Zika: Số mắc cộng dồn Zika là 02 trường hợp, giảm 03  trường hợp so với cùng kỳ (05 trường hợp). Không ghi nhận trường hợp mắc tử vong.

- Sởi: Tình hình dịch Sởi trong tháng diễn biến phức tạp, ghi nhận 352 trường hợp mắc Sởi; tăng 66,82% so tháng trước. Trong đó số mắc tập trung nhiều nhất tại Biên Hòa 134 trường hợp, huyện Nhơn Trạch 75 trường hợp, Trảng Bom 41 trường hợp và Long Thành 32 trường hợp. Số trường hợp mắc Sởi cộng dồn đến tháng 12 là 712 trường hợp. Không ghi nhận trường hợp mắc bệnh tử vong. Tiếp tục chiến dịch tiêm bổ sung vắc xin sởi, Sởi-Rubella cho trẻ từ 1 đến 5 tuổi trên quy mô 171 xã, phường, thị trấn trên toàn tỉnh. Kết quả tiêm vét vắc xin Sởi - Rubella cho trẻ từ 1- 5 tuổi tính đến tháng 12 là 135.717/178.695 trẻ trẻ đạt 67,38% kế hoạch. Trong đó: Số trẻ được tiêm tại các trường học là: 98.057 trẻ; số trẻ được tiêm tại cộng đồng là: 37.660 trẻ.

- Sốt rét: Trong tháng 12 ghi nhận 03 trường hợp mắc Sốt rét tăng 01 trường hợp so với tháng trước. Số trường hợp mắc cộng dồn đến tháng 12 là 55 trường hợp; tăng 2,6 lần so cùng kỳ (21 trường hợp). Trong tháng không ghi nhận trường hợp mắc bệnh tử vong.

- Tay chân miệng (TCM): Trong tháng 12 có 569 trường hợp mắc TCM nội trú, giảm 53% so với tháng trước và tăng 1,52 lần so với tháng cùng kỳ năm 2017 (226 trường hợp); 1.034 trường hợp mắc TCM ngoại trú, giảm 50,3% so với tháng trước. Số trường hợp mắc TCM cộng dồn đến tháng 12 là 4.308 trường hợp nội trú, tăng 24% so với cùng kỳ và 7.770 trường hợp ngoại trú, tăng 47% so với cùng kỳ. Có 01 trường hợp mắc bệnh TCM tử vong.

-  Tình hình ngộ độc thức ăn và thực phẩm: Tính từ đầu năm, trên địa bàn tỉnh xảy ra 03 vụ ngộ độc thực phẩm, với tổng số người mắc là 186; không có trường hợp tử vong.

- Tình hình kiểm tra, kiểm soát vệ sinh, an toàn thực phẩm: Trong năm, ngành Y tế đã thường xuyên tổ chức tuyên truyền giáo dục người dân, nhất là các cơ sở chế biến, kinh doanh thực phẩm kiến thức về an toàn vệ sinh thực phẩm. Tăng cường tổ chức các đoàn kiểm tra vệ sinh an toàn thực phẩm; tính đến tháng 10 năm 2018 đã kiểm tra 13.591 cơ sở, có 83,6% cơ sở đạt; tổng số tiền phạt vi phạm là 513,6 triệu đồng.

Các chương trình mục tiêu 

Phòng chống sốt rét: Đến cuối tháng 11, toàn tỉnh có 25 ca, giảm 90 ca (-78,3%) so cùng kỳ; không có sốt rét ác tính; số lượt người điều trị có 25 người, giảm 90 lượt (-78,3%) so cùng kỳ. Dự ước năm số người bị sốt rét 30 ca, giảm 88 ca (-74,6%) so cùng kỳ.

Phòng chống lao: Tính từ đầu năm đến nay bệnh lao có 3.042 người mắc bệnh lao, giảm 627 người (-17,1%) so cùng kỳ.

Tiêm chủng mở rộng: công tác tiêm chủng mở rộng được duy trì thường xuyên tại các địa bàn trong tỉnh. Ước năm 2018 số cháu tiêm đầy đủ 6 loại vaccin có 52.301 cháu, đạt 98,4% so kế hoạch và tăng 511 cháu (+1%) so cùng kỳ.

Khám chữa bệnh: Tổ chức cấp cứu, khám, chữa bệnh kịp thời và đúng quy chế chuyên môn, các bệnh viện tiếp tục thực hiện tốt Đề án Bệnh viện vệ tinh, Đề án 1816, triển khai nhiều kỹ thuật mới, “Đổi mới phong cách, thái độ phục vụ của cán bộ y tế hướng tới sự hài lòng của người bệnh”. Thực hiện công tác khám, chữa bệnh đúng quy trình khám, chữa bệnh, chỉ định xét nghiệm cận lâm sàng, sử dụng thuốc và các thủ tục thanh quyết toán bảo hiểm y tế. Tính đến hết tháng 10/2018, tổng số lượt khám bệnh: 6.007.316 lượt, số người điều trị nội trú: 319.965  người, số ngày điều trị nội trú: 1.967.708 ngày.

- Chương trình kế hoạch hóa gia đình: Duy trì công tác khám, hướng dẫn và cung cấp các phương tiện tránh thai. Số lượt khám thai tính đến tháng 10/2018 có 215.015 lượt khám thai, trong đó số phụ nữ đẻ được khám thai 3 lần: 35.115; số lượt khám phụ khoa có 155.663, trong đó số trường hợp tai biến sản khoa: 51, tử vong: 6 (sản giật); số lượt điều trị phụ khoa: 76.978; đặt vòng tránh thai mới 6.283; triệt sản: 487 người; thuốc: 36.401. Trong năm 2018 đã triển khai thực hiện tốt chương trình sàng lọc dị tật bẩm sinh trước và sau sinh.

f. Giải quyết việc làm, đào tạo nghề

Trong tháng 12, đã giải quyết việc làm cho 489 lao động. Ước năm 2018 toàn tỉnh giải quyết việc làm cho 85.322 lượt người, đạt 106,65% kế hoạch, tăng 2,12% so với cùng kỳ năm 2017; tổ chức 20 sàn giao dịch việc làm, tiếp nhận trực tiếp tại sàn 4.429 hồ sơ; Giải quyết 45.397 quyết định hưởng trợ cấp thất nghiệp; tư vấn và giới thiệu việc làm cho 48.399 lượt lao động thất nghiệp, hỗ trợ học nghề cho 2.106 người.

Tiếp nhận 47.786 hồ sơ hưởng bảo hiểm thất nghiệp, đã ban hành quyết định hưởng trợ cấp thất nghiệp cho 45.397 người, với số tiền 793.250 triệu đồng; tư vấn và giới thiệu việc làm cho 48.399 lượt người, hỗ trợ học nghề cho 2.106 người. 

- Công tác đào tạo nghề: Trong năm 2018, ước tuyển mới 75.882 người, đạt 100,1% kế hoạch năm, trong đó: Cao đẳng 6.397 người, đạt 103,2% kế hoạch năm; trung cấp 11.876 người, đạt 103,3% kế hoạch năm; Sơ cấp và đào tạo thường xuyên 57.609 người; số học viên trung cấp trở lên là 18.273 người, chiếm 24,1% trên tổng số tuyển mới năm 2018. 

Số người tốt nghiệp là ước thực hiện 67.211 người đạt 102% kế hoạch năm, trong đó: cao đẳng nghề 4.814 người; trung cấp nghề 5.612 người; sơ cấp và đào tạo thường xuyên 56.785 người.

Tỷ lệ giải quyết việc làm sau đào tạo đạt 80%. Nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề từ 56,78% năm 2017 lên 59.09% năm 2018, đạt chỉ tiêu đề ra (năm 2018 là 59% tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề).

g. Giảm nghèo

Giao chỉ tiêu kế hoạch thực hiện giảm tỷ lệ hộ nghèo năm 2018 cho các huyện, thị xã Long Khánh và thành phố Biên Hòa; đồng thời phê duyệt kết quả điều tra, rà soát hộ nghèo tiếp cận đa chiều giữa kỳ (cuối năm 2017) giai đoạn 2016 - 2020 và điều tra hộ có mức sống trung bình giai đoạn 2017 - 2020 tỉnh Đồng Nai; hướng dẫn đối tượng thuộc Chương trình mục tiêu Quốc gia giảm nghèo bền vững tỉnh Đồng Nai năm 2018.

Hỗ trợ cho 4.700 lượt hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo vay mới, với số tiền 162.272 triệu đồng; mua và cấp 51.195 thẻ BHYT miễn phí cho người nghèo theo quy định; hỗ trợ đầu thu truyền hình số mặt đất cho hộ nghèo, hộ cận nghèo theo chuẩn cả nước và tiêu chí của tỉnh 3.784 hộ.

Dự ước năm 2018, thực hiện đạt chỉ tiêu giảm 0,2% tỷ lệ hộ nghèo (tương ứng khoảng 1.600 hộ nghèo), giảm 0,11% tỷ lệ hộ cận nghèo (tương ứng khoảng 800 hộ cận nghèo) theo chuẩn nghèo, đạt mục tiêu Nghị quyết đề ra.

h. Khoa học và công nghệ: 

Triển khai Chương trình trình hỗ trợ các đơn vị, doanh nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh; áp dụng hệ thống quản lý chất lượng tiên tiến; bảo hộ Sở hữu trí tuệ giai đoạn 2016-2020. Kết quả, năm 2018 đã lập thủ tục hỗ trợ 85 doanh nghiệp tham gia Chương trình (trong đó: 30 doanh nghiệp áp dụng các công cụ quản lý tiên tiến và xây dựng tiêu chuẩn, 45 doanh nghiệp thực hiện bảo hộ sở hữu trí tuệ, 05 doanh nghiệp thực hiện xây dựng website, 01 doanh nghiệp nghiên cứu sản phẩm mới, đổi mới công nghệ, thực hiện chuyển giao công nghệ, 04 doanh nghiệp thực hiện tiết kiệm năng lượng.

Hướng dẫn các cơ quan hành chính rà soát hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9001:2008 và xây dựng lộ trình đến năm 2021 chuyển đổi phiên bản sang ISO 9001:2015.

Quản lý 31 đề tài, dự án nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ cấp tỉnh đang triển khai và 29 đề tài, dự án cấp cơ sở đang triển khai; Tổng kết - nghiệm thu và chuyển giao ứng dụng thực tiễn 06 đề tài cấp tỉnh.

12. Tình hình trật tự an toàn xã hội 

(Tính từ ngày 12/12/2017 đến ngày 12/12/2018).

- Phạm pháp hình sự: Xảy ra 1.156 vụ làm chết 56 người bị thương 268 người thiệt hại khoảng 24.631,1 triệu đồng, đã điều tra và bắt 1.130 đối tượng thu hồi 7.927 triệu đồng, so cùng kỳ giảm 90 vụ (-7,2%).

- Phạm pháp kinh tế và phạm pháp trong lĩnh vực môi trường: 

Phát hiện 285 vụ phạm pháp kinh tế, giảm 14 vụ (-4,7%) so cùng kỳ, bắt 288 đối tượng, xử lý hành chính 159 vụ và 168 đối tượng, với số tiền 1.548,5 triệu đồng.

Vi phạm trong lĩnh vực môi trường 419 vụ, giảm 151 vụ (-26,5%) so cùng kỳ, đã xử phạt hành chính 362 vụ và 336 đối tượng với số tiền 12.423,1 triệu đồng.

- Tệ nạn xã hội: 

Ma tuý: Phát hiện 581 vụ, tăng 86 vụ (+17,4%) so cùng kỳ, bắt 2.005 đối tượng, đã xử lý hành chính 114 vụ và 1.373 đối tượng. Lập hồ sơ khởi tố 54 vụ 71 đối tượng.

Cờ bạc: Phát hiện 407 vụ, tăng 34 vụ (+9,1%) so cùng kỳ, bắt 2.027 đối tượng, đã xử lý hành chính 168 vụ và 710 đối tượng. Lập hồ sơ khởi tố 40 vụ và 185 đối tượng.

Mại dâm: Phát hiện 11 vụ, so cùng kỳ giảm 5 vụ, bắt 33 đối tượng.

-  Tai nạn giao thông: 

Đường bộ: Xảy ra 313 vụ, so cùng kỳ giảm 15 vụ (-4,6%), làm chết 234 người, bị thương 200 người. Nguyên nhân đa phần do điều khiển phương tiện chạy quá tốc độ, không quan sát, đi không đúng phần đường, lấn trái đường, qua đường bất cẩn, say rượu bia, vượt sai qui định.v.v.

Đường sắt: Xảy ra 3 vụ, chết 3 người, giảm 6 vụ so với cùng kỳ (-66,7%). Nguyên nhân do phương tiện qua đường sắt không an toàn; qua đường sắt thiếu chú ý quan sát.

Đường thuỷ: Xảy ra 3 vụ so với cùng không tăng không giảm 

Tình hình cháy nổ:

Cháy: Xảy ra 45 vụ, so với cùng kỳ tăng 20 vụ. 

Nổ: Trong kỳ không xảy ra.

13. ĐÁNH GIÁ CHUNG

Tình hình kinh tế - xã hội năm 2018 trên địa bàn tỉnh tiếp tục phát triển ổn định, các ngành, lĩnh vực chủ yếu tiếp tục tăng trưởng: Dự ước tăng trưởng Tổng sản phẩm (GRDP) tăng 8,1% cao hơn bình quân chung cả nước. Sản xuất công nghiệp tăng trưởng ổn định, chỉ số sản xuất công nghiệp tăng khá cao so cùng kỳ; Sản xuất nông nghiệp tiếp tục phát triển, đặc biệt là lĩnh vực chăn nuôi đang phục hồi khá nhanh; dịch vụ du lịch được quan tâm phát triển; xuất khẩu tăng khá so với cùng kỳ; môi trường kinh doanh tiếp tục được cải thiện, thu hút đầu tư nước ngoài đạt kết quả cao, số lượng doanh nghiệp thành lập mới tăng. Hoạt động thông tin, tuyên truyền, văn hóa, nghệ thuật, thể thao, du lịch diễn ra sôi động, phong phú. Lĩnh vực giáo dục đào tạo được quan tâm thực hiện nên tiếp tục phát triển tốt. Công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân, bảo đảm an toàn thực phẩm được tăng cường. Công tác đào tạo nghề, giải quyết việc làm và thực hiện các chính sách an sinh xã hội được các ngành, các cấp quan tâm chỉ đạo thực hiện và đạt những kết quả tích cực. 

Bên cạnh những kết quả đạt được, tình hình kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh còn có những khó khăn, thách thức:

- Do những tháng đầu năm 2018 xảy ra mưa trái vụ, ảnh hưởng đến lĩnh vực trồng trọt trên địa bàn; giá sản phẩm chăn nuôi đã tăng trở lại nhưng chưa ổn định, ngành chăn nuôi còn tiềm ẩn nhiều rủi ro do giá biến động thất thường; nuôi trồng thủy sản do ảnh hưởng của thiên tai đã gây hiện tượng cá chết hàng loạt xảy ra trên địa bàn huyện Định Quán; tình hình lấn chiếm, xây cất nhà trái phép trên đất lâm nghiệp còn diễn biến phức tạp. 

- Công tác phát triển nhà ở xã hội vẫn còn thiếu so với nhu cầu; việc triển khai các chương trình hỗ trợ nhà ở vẫn còn chậm; tình trạng các công trình vi phạm trật tự xây dựng vẫn còn khá cao tại một số địa phương; việc phân lô bán nền của các chủ đầu tư, các công ty môi giới chào bán tại các địa phương như huyện Long Thành, Nhơn Trạch, Trảng Bom, Vĩnh Cửu, Thống Nhất, thành phố Biên Hòa tăng cao trong khi các dự án chưa được hoàn chỉnh về thủ tục pháp lý cũng như việc đầu tư xây dựng hạ tầng chưa hoàn chỉnh theo quy định pháp luật.

- Tình hình dịch bệnh diễn biến phức tạp, công tác phòng, chống dịch bệnh còn nhiều khó khăn do các bệnh như sốt xuất huyết, tay chân miệng chưa có thuốc điều trị đặc hiệu và vắc xin phòng bệnh, hoạt động phòng, chống chủ yếu dựa vào sự tham gia của cộng đồng, ý thức tự phòng bệnh của người dân… 

- Tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp vẫn còn gặp những khó khăn nhất là doanh nghiệp vừa và nhỏ do vốn ít, công nghệ thấp kém; các doanh nghiệp ngành sản xuất đồ gỗ vẫn chưa qua hết khó khăn do giá nguyên liệu đầu vào cao; doanh nghiệp chế biến thực phẩm tiêu thụ sản phẩm chậm…

- Tình hình các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nợ lương, nợ bảo hiểm, có dấu hiệu bỏ trốn diễn biến phức tạp (Công ty Texwell, Công ty Chuwon…).

14. Đề xuất một số giải pháp phát triển kinh tế - xã hội năm 2019.

Năm 2019, là năm cận kề năm cuối thực hiện các mục tiêu của Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Đồng Nai lần thứ X; Nghị quyết Hội đồng nhân dân tỉnh Khóa VIII về mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng an ninh 05 năm 2016 - 2020. Bên cạnh những điều kiện thuận lợi đó; tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh cũng đối mặt với những khó khăn thách thức, đó là: chất lượng nguồn nhân lực, năng suất lao động thấp; tình hình ô nhiễm môi trường thách thức ứng phó với biến đổi khí hậu tiếp tục diễn biến theo chiều hướng khắc nghiệt; thiên tai, dịch bệnh vẫn còn tiềm ẩn nhiều rủi ro; các nguồn vốn huy động đầu tư ngoài ngân sách còn nhiều khó khăn; hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội chưa đồng bộ; việc thu hồi đất, bồi thường giải phóng mặt bằng còn phức tạp,…

Do đó, để thực hiện đạt và vượt các chỉ tiêu kinh tế xã hội theo Nghị quyết Tỉnh ủy và HĐND tỉnh đề ra trong năm 2019 Cục Thống kê kiến nghị một số giải pháp sau đây:

a. Thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ, giải pháp tạo điều kiện thuận lợi phát triển sản xuất kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.

+ Tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi tạo điều kiện các thành phần kinh tế đầu tư sản xuất, kinh doanh. Đẩy mạnh thực hiện Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa và các văn bản hướng dẫn thi hành; Tổ chức các hội nghị gặp gỡ doanh nghiệp để nắm tình hình, lắng nghe doanh nghiệp phản ánh những khó khăn vướng mắc trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh. Triển khai cụ thể hóa Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP). 

+ Rà soát các khó khăn vướng mắc về đầu tư, đất đai, xây dựng và các quy định khác liên quan để kiến nghị sửa đổi tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp, nhà đầu tư.

+ Tăng cường đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính về thuế; tạo chuyển biến rõ nét trong việc chống thất thu, xử lý và ngăn chặn các hành vi buôn lậu, gian lận thương mại, sản xuất, kinh doanh hàng giả, chuyển giá, trốn thuế. 

+ Quan tâm các giải pháp hỗ trợ cho vay các lĩnh vực sản xuất kinh doanh và theo chương trình cho vay hỗ trợ xuất khẩu, cho vay theo chương trình kết nối ngân hàng – doanh nghiệp. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động của các tổ chức tín dụng, bảo đảm an toàn hệ thống, xử lý hoặc kiến nghị cấp có thẩm quyền xử lý nghiêm các vi phạm theo quy định.

b. Thực hiện có hiệu quả tái cơ cấu kinh tế các ngành, lĩnh vực và đẩy mạnh thực hiện các nhiệm vụ đột phá: 

+ Đẩy mạnh thực hiện có hiệu quả Đề án tái cơ cấu kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng trong tất cả các ngành, lĩnh vực, theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả và năng lực cạnh tranh giai đoạn 2016 - 2020 trên địa bàn tỉnh. 

+ Thực hiện có hiệu quả Chương trình Phát triển kết cấu hạ tầng tỉnh Đồng Nai giai đoạn 2016-2020, tăng cường huy động các nguồn lực, tạo bước phát triển mạnh mẽ trong đầu tư kết cấu hạ tầng giao thông, nhất là các công trình trọng điểm trên địa bàn thành phố Biên Hòa, thị xã Long Khánh, huyện Nhơn Trạch..., đảm bảo triển khai đầu tư đúng tiến độ. Triển khai thực hiện nhanh và hiệu quả công tác bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khu đất dự án Cảng hàng không quốc tế Long Thành.

+ Tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư tham gia đầu tư, các công trình cấp nước sạch phục vụ dân sinh và các thiết chế văn hóa – thể thao cơ sở phục vụ nhân dân trên địa bàn theo Kế hoạch số 11199/KH-UBND ngày 19/10/2018. Chú trọng đầu tư phát triển giáo dục mầm non; quan tâm phát triển nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu phát triển.

c. Phát triển đối với lĩnh vực nông nghiệp

+ Tiếp tục cập nhật các giải pháp phòng trừ sinh vật hại có hiệu quả theo hướng tổng hợp, thân thiện an toàn; chuyển giao các tiến bộ khoa học kỹ thuật, tiếp tục nhân rộng các mô hình sản xuất có hiệu quả; thực hiện sản xuất trồng trọt theo quy hoạch sản xuất nông nghiệp của tỉnh và cơ cấu lại lĩnh vực trồng trọt đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế; tăng cường ứng dụng công nghệ sinh học để cây trồng sinh trưởng phát triển tốt, tăng sức chống chịu với sâu bệnh, tạo năng suất cao, tạo ra nông sản chất lượng cao và an toàn, đủ sức cạnh tranh trên thị trường trong nước và Quốc tế.

+ Nâng cấp các chợ, nơi buôn bán, tiêu thụ nông sản. Xúc tiến thương mại, quảng bá sản phẩm nông sản; liên kết với nhà phân phối để tiêu thụ sản phẩm và thực hiện quản lý theo chuỗi từ trang trại đến bàn ăn, kết nối nơi tiêu thụ với các vùng sản xuất thông qua hợp đồng đầu tư sản xuất và bao tiêu sản phẩm.

+ Tuyên truyền, hướng dẫn công tác phòng chống dịch cho các chủ trại, đồng thời đẩy mạnh việc theo dõi, tổ chức giám sát, phát hiện dịch bệnh để phối hợp xử lý kịp thời; tổ chức giám sát chặt chẽ nơi buôn bán, giết mổ và có phương án xử lý trong trường hợp dịch bệnh xuất hiện… 

d. Phát triển văn hóa, thể dục thể thao

+ Xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, phong phú, đa dạng, khắc phục các biểu hiện xuống cấp về đạo đức xã hội; bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa dân tộc; đồng thời khuyến khích tự do sáng tạo trong hoạt động văn hóa, văn học, nghệ thuật; nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động văn hóa. Tăng cường quản lý các lễ hội, hoạt động văn hóa. Đẩy mạnh phát triển phong trào thể dục thể thao quần chúng, nâng cao thành tích các môn thể thao trọng điểm.

+ Thực hiện hiệu quả các chính sách thúc đẩy bình đẳng giới và vì sự tiến bộ của phụ nữ. Chú trọng công tác chăm sóc, giáo dục và bảo vệ quyền lợi của trẻ em; phát triển thanh niên. Chăm sóc và phát huy vai trò người cao tuổi, xây dựng và nhân rộng các hình mẫu gia đình văn minh, hạnh phúc.

+ Thực hiện tốt các chính sách quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo. 

e. Phát triển giáo dục, đào tạo; phát triển khoa học công nghệ

+ Tập trung triển khai thực hiện đổi mới, tạo chuyển biến căn bản, mạnh mẽ về chất lượng, hiệu quả giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu của xã hội và hội nhập quốc tế; triển khai đổi mới chương trình sách giáo khoa giáo dục phổ thông. Tăng cường giáo dục kỹ năng, kiến thức cơ bản, tư duy sáng tạo, khả năng thích nghi với yêu cầu Cách mạng công nghiệp 4.0. Nghiên cứu giải quyết các vướng mắc để đẩy mạnh xã hội hóa, thu hút các nguồn lực phát triển giáo dục. Nâng cao chất lượng giáo dục nghề nghiệp, giáo dục đại học, nhất là các trường ngoài công lập. Tiếp tục thực hiện các biện pháp nâng cao tỷ lệ và chất lượng lao động qua đào tạo.

+ Thực hiện có hiệu quả các chương trình phát triển khoa học và công nghệ theo hướng gắn kết chặt chẽ với sự phát triển của ngành, lĩnh vực. Hỗ trợ, khuyến khích doanh nghiệp tham gia thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu ứng dụng, đặc biệt là các nhiệm vụ khoa học và công nghệ phục vụ phát triển các sản phẩm chủ lực theo chuỗi giá trị có tiềm năng xuất khẩu. Ưu tiên triển khai các giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và tiếp cận nguồn vốn cho doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp khởi nghiệp nói riêng. 

f. Thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo đảm an sinh xã hội; tăng cường công tác bảo vệ, chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân:

Đẩy nhanh ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý khám bệnh, chữa bệnh; tiếp tục củng cố và nâng cao hiệu quả hoạt động mạng lưới y tế cơ sở, chăm sóc sức khỏe ban đầu. Tiếp tục triển khai các giải pháp nâng cao chất lượng dịch vụ khám, chữa bệnh, đẩy mạnh xã hội hóa trong lĩnh vực y tế. Chủ động, tích cực phòng, chống dịch bệnh, không để các dịch bệnh lớn xảy ra, từng bước thực hiện quản lý sức khỏe đến từng người dân và quản lý các bệnh mãn tính, bệnh không lây nhiễm tại y tế cơ sở. Tăng cường trách nhiệm và nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm, môi trường y tế. 

Thực hiện tốt chính sách ưu đãi người có công với cách mạng. Phát triển hệ thống an sinh xã hội. Thực hiện hiệu quả, kịp thời các chính sách trợ giúp thường xuyên và đột xuất đối với các đối tượng yếu thế trong xã hội./.


Liên kết webiste

Thăm dò ý kiến

Đánh giá về trang thông tin điện tử Cục Thống kê tỉnh Đồng Nai

 

Số lượt truy cập

Trong ngày:
Tất cả:

CỤC THỐNG KÊ TỈNH ĐỒNG NAI

Địa chỉ: Đường Đồng khởi, phường Tân Hiệp, TP. Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai
Điện thoại: (0251)3.822.419; Fax: (0251)3.819.047
Email: ctk@dongnai.gov.vn
Ghi rõ nguồn "thongke.dongnai.gov.vn" khi bạn phát hành lại thông tin từ website này​



Chung nhan Tin Nhiem Mang