Chín
tháng năm 2023, kinh tế thế giới tiếp tục diễn biến không thuận lợi do
ảnh hưởng của chiến tranh, lạm phát tăng cao, suy thoái kinh tế thế giới diễn ra đã ảnh
hưởng tình hình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp và đời
sống xã hội của cả nước nói chung, trên địa bàn tỉnh Đồng Nai nói riêng. Trong
bối cảnh khó khăn diễn ra, Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh đã tập trung lãnh đạo, chỉ
đạo các cấp, các ngành, doanh nghiệp tập trung các giải pháp thúc đẩy tăng trưởng, phát triển
kinh tế xã hội, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân và bảo
đảm an sinh xã hội; các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất kinh doanh
thể hiện sự nỗ lực, quyết tâm, đẩy mạnh sản xuất, phấn đấu hoàn thành mục tiêu nhiệm
vụ phát triển kinh tế kế hoạch mà nghị quyết của Tỉnh ủy và HĐND tỉnh đề ra. Tuy nhiên 9 tháng đầu năm 2023, tình
hình sản xuất kinh doanh nói chung đang gặp không ít khó khăn, do thiếu đơn hàng sản xuất, thị trường xuất khẩu sụt giảm
mạnh, tiêu thụ sản phẩm khó khăn, công nhân thiếu việc làm, thu nhập giảm
v.v...
vì vậy ảnh hưởng lớn đến tình hình phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn
tỉnh. Trên cơ sở kết quả thực hiện 8 tháng đầu năm và ước
tính tháng 9/2023, Cục Thống kê dự ước tình hình kinh tế -
xã hội trên địa bàn tỉnh 9 tháng năm 2023 như sau:
A.
TÌNH HÌNH KINH TẾ - XÃ HỘI
1.
Sản xuất công nghiệp
Tình hình sản xuất công nghiệp trên địa bàn tỉnh 9 tháng
năm 2023 vẫn tiếp tục khó khăn do tình hình chính trị trên thế giới, chiến
tranh Nga Ucraina kéo dài, lạm phát ở các nước nhất là các nước liên minh Châu
Âu, lãi suất tín dụng tăng…, do đó đã tác động tiêu cực đến hoạt động kinh
doanh các doanh nghiệp, đơn hàng sản xuất của doanh nghiệp bị sụt giảm mạnh, chỉ
số tồn kho xu hướng gia tăng, tình trạng thiếu việc làm diễn ra khá phổ biến ở các
doanh nghiệp đặc biệt là các doanh nghiệp có Vốn đầu tư nước ngoài (FDI) thuộc
vào các ngành có nhiều lao động từ đó làm ảnh hưởng không nhỏ đến tình hình sản
xuất công nghiệp trên địa bàn. Chỉ số sản xuất chung toàn ngành công nghiệp
trên địa bàn 9 tháng dự ước đạt thấp.
- Dự ước
chỉ số sản xuất công nghiệp tháng 9/2023 tăng 1,13% so tháng trước đây là mức
tăng thấp, trong đó: ngành khai khoáng giảm
2,48%; Công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 1,13%; Sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước tăng 1,96%; Cung cấp
nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước tăng 0,66%. Có 25/27 ngành tăng
so tháng trước như: sản xuất chế biến thực phẩm tăng 0,69%; sản xuất đồ uống
tăng 1,29%; Sản xuất giấy và sản phẩm tử giấy tăng 2,85%; Sản xuất trang phục
tăng 1,39%; sản xuất hóa chất và sản phẩm hóa chất tăng 1,68%; sản xuất khoảng
phi kim loại khác tăng 0,22%; sản xuất thuốc, hóa dược và dược liệu tăng 1,34%;
Sản xuất sản phẩm điện tử, máy tính và sản phẩm quang học tăng 2,34%; Sản xuất
máy móc, thiết bị chưa được phân vào dâu tăng 3,99%; Sản xuất phương tiện vận tải
khác tăng 2,43%, … Nhìn chung hầu hết các ngành sản xuất đều có tăng so tháng
trước nhưng mức tăng thấp, nguyên nhân chủ yếu do tình hình sản xuất của các
doanh nghiệp vẫn còn gặp rất nhiều khó khăn do đơn hàng chưa được cải thiện,
nhiều đơn hàng đã ký nhưng phải ngưng do đối tác không có khả năng thanh toán
vì khó khăn về tài chính, thị trường xuất khẩu giảm dẫn đến việc doanh nghiệp
thu hẹp sản xuất. Đặc biệt ngành sản xuất giường, tủ, bàn ghế từ đầu năm đến
nay đơn hàng rất ít, hầu hết các Doanh nghiệp chưa có đơn hàng sản xuất. tuy
nhiên tháng 9 này một số Doanh nghiệp cũng đã có thêm hợp đồng mới để sản xuất
từ nay đến cuối năm như ngành Da giày, Dệt, May v.v… hy vọng những tháng cuối
năm tình hình sản xuất kinh doanh của Doanh nghiệp khả quan hơn.
-
Chỉ số sản xuất công nghiệp quý III năm 2023 tăng 1,85% so quý II/2023 và tăng
7,27% so với cùng kỳ. Trong đó: Khai khoáng tăng 7,4%; nhóm ngành chế biến, chế
tạo tăng 8,61%; sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước giảm
20,09%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước tăng 6,39%. Sản xuất công nghiệp trong quý III chững lại do
giá nguyên liệu tăng cao, dẫn đến nguồn cung nguyên liệu bị giảm
mạnh, nhập khẩu nguyên liệu chịu tác động khá nặng nề, nhiều doanh nghiệp không có đơn hàng sản xuất. Một
số ngành sản xuất giày da, sản phẩm gỗ, dệt may, điện tử… Xuất khẩu giảm
là do đơn hàng của các doanh nghiệp còn ít, ký kết được các hợp đồng
sản xuất mới chưa nhiều, do đó sản xuất cũng bị ảnh hưởng. Các doanh nghiệp
sản xuất có quy mô lớn đều giảm sản lượng sản xuất, công nhân nghỉ việc luân
phiên như công ty Dệt Tainan, công ty giày da Taiwan Vina, công ty Changshin...
- Dự ước chỉ số sản xuất công nghiệp 9
tháng/2023 tăng 4,31% so cùng kỳ đây là mức tăng thấp nhất so với 9 tháng của
nhiều năm qua, trong đó ngành khai khoáng tăng 4,9%; Công nghiệp chế biến, chế
tạo tăng 4,98%; sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước giảm
8,54%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước tăng 4,13%.
Nhìn chung tình hình sản xuất công nghiệp 9 tháng năm 2023 trên địa bàn tỉnh
Đồng Nai của các doanh nghiệp còn gặp nhiều khó khăn do thiếu đơn hàng sản
xuất, giá nguyên liệu giá vẫn cao, một số doanh nghiệp phải sắp xếp lại sản
xuất, cắt giảm lao động để duy trì sản xuất, mặc dù trong tháng 9 một số doanh
nghiệp đã ký được đơn hàng sản xuất mới, tuy nhiên lượng hàng chưa nhiều. Vì
vậy chỉ số sản xuất công nghiệp trên địa bàn 9 tháng và dự báo quý IV/2023 tăng
trưởng còn thấp.
Một số
ngành công nghiệp chủ lực có chỉ số sản xuất 9 tháng đầu năm đạt mức tăng khá
so cùng kỳ như: Sản xuất đồ uống tăng 6,4%, Sản xuất chế biến thực phẩm 6,04%;
May mặc tăng 5,87%; sản xuất hóa chất tăng 4,3%; sản xuất thuốc, hóa dược và
dược liệu tăng 7,75%.v.v…một số ngành sản xuất khác như: sản xuất sản phẩm từ
cao su và plastic tăng 7,06%; sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác
tăng 4,68%; sản xuất kim loại đúc sẵn tăng 11,33%; sản xuất thiết bị điện tăng
5,43%, sản xuất máy móc thiết bị chưa phân vào đâu tăng 6,05%.v.v… Tuy nhiên
mức tăng trưởng của các ngành sản xuất 9 tháng thấp hơn rất nhiều so với các
năm trước. Dự 9 tháng đầu năm 2023 có 25/27 ngành sản xuất chỉ số tăng tuy
nhiên mức tăng thấp.
Một số ngành sản xuất dự ước chỉ số
sản xuất giảm so cùng kỳ như: Sản xuất giường, tủ, bàn, ghế (-3,25%); nguyên
nhân giảm do ngành này từ đầu năm đến nay hợp đồng sản xuất giảm mạnh, nhiều
Doanh nghiệp chưa có hàng mới; Sản xuất và phân phối điện, khí đột, nước nóng,
hơi nước và điều hòa không khí (-8,54%)
nguyên nhân ngành này giảm mạnh do năm 2023 các Doanh nghiệp sản xuất
điện trên địa bàn được tập đoàn Điện lực Việt Nam giao chỉ tiêu sản xuất giảm
nhiều so với năm trước. Đây cũng là nguyên nhân là cho chỉ số sản xuất công
nghiệp 9 tháng đạt thấp.
- Chỉ số sản phẩm công
nghiệp: Dự ước 9 tháng một số sản phẩm công nghiệp
chủ yếu tăng so cùng kỳ năm 2022 như: Đá xây dựng các loại tăng 3,64%; cà phê
các loại tăng 2,20%; Thức ăn gia súc, gia cầm, thủy sản tăng 7,97%; Sợi các
loại tăng 6,02%; Vải các loại tăng 9,89%, quần áo các loại tăng 6,38%, giày
dép các loại tăng 6,29%, sản phẩm kim loại tăng 11,33%; sản phẩm điện tử tăng
4%,… tuy nhiên một số ngành sản phẩm do thiếu đơn hàng sản xuất, khó
khăn về nguyên liệu sản xuất, thị trường xuất khẩu giảm nên mức giảm
so cùng kỳ như: Giường, tủ, bàn ghế giảm 0,42%, v.v...
- Chỉ số tiêu thụ: Chỉ
số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp trong tháng 9/2023 giảm 5,26% so với tháng
8/2023. Lũy kế 9 tháng chỉ số tiêu thụ giảm 9,12% so cùng kỳ, trong đó một số
ngành chỉ số tiêu thụ 9 tháng tăng so cùng kỳ đó là: Sản xuất chế biến thực
phẩm tăng 10,94%; Sản xuất
trang phục tăng 13,57%; Sản xuất hóa chất và dược liệu tăng 28,27%; Sản xuất
sản phẩm từ khoáng phi kim loại tăng 11,8%; Sản xuất xe có động cơ
tăng 16,93% .... Các ngành có chỉ số tiêu thụ giảm như: Sản xuất đồ uống giảm
55%; Dệt giảm 18,44%; Sản xuất da và các sản phẩm liên quan giảm 11,42%; Sản
xuất kim loại giảm 11,62%; Sản xuất giường, tủ, bàn, ghế giảm 38,47%; Chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ,
tre, nứa tăng 15,34%; Sản phẩm cao su và plastic giảm 13,75%; Sản xuất thiết bị
điện giảm 19%; Sản xuất phương tiện vận tải khác giảm 43,28%; …
- Chỉ số tồn kho: Toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tháng 9/2023 dự ước tăng 4,71% so với tháng 8/2023. Một số ngành chỉ số tồn kho tăng cao so tháng trước
như: Sản xuất chế biến thực phẩm (+40,17%); Dệt (+13,33%); sản xuất
trang phục (+10,6%); sản xuất da và các sản phẩm liên quan (+2,88%); sản xuất
thiết bị điện (+12,8%), sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn (+3,46%); Nguyên nhân chỉ số tồn kho tăng
do thị trường tiêu thụ sản phẩm hàng hóa còn khó khăn, thời gian qua hầu
hết duy trì sản xuất dự trữ hàng hóa nên lượng tồn kho tăng.
- Chỉ số sử dụng lao động: Chỉ
số sử dụng lao động trong các doanh nghiệp tháng 9 giảm 0,24% so với tháng
trước và giảm 6,93% so tháng cùng kỳ, trong đó: doanh nghiệp nhà nước giảm
0,02% so tháng trước và giảm 2,73% so tháng cùng kỳ; doanh nghiệp ngoài nhà
nước tương ứng tăng 0,15% so tháng trước và giảm 12,02% so cùng kỳ; doanh
nghiệp đầu tư nước ngoài giảm 0,27% so tháng trước và giảm 6,61% so tháng cùng
kỳ. Lũy kế 9 tháng chỉ số sử dụng lao động giảm 7,78% so cùng kỳ, trong đó
ngành khai khoảng giảm 7,46%, công nghiệp chế biến, chế tạo giảm 7,87%, sản
xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hoà không khí và
cung cấp nước giảm 1,47%; Hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải chỉ
số lao động tăng 0,53% so cùng kỳ. Trong
quý III sản xuất của doanh nghiệp đối mặt với nhiều khó khăn, ảnh hưởng trực
tiếp đến sản xuất như: giá nguyên liệu đầu vào tăng cao, đơn hàng giảm… Do đó,
một số Doanh nghiệp đã điều chỉnh quy mô sản xuất, cho công nhân nghỉ chờ việc
đã ảnh hưởng tình tình sử dụng lao động 9 tháng so cùng kỳ.
2. Tài chính - Ngân hàng
a)
Tài chính
Trong 9 tháng đầu năm 2023,
tình hình thế giới và khu vực tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường. Ở trong
nước và trong tỉnh nền kinh tế tiếp tục đối diện với “khó khăn kép” cả từ bên
trong và bên ngoài, thách thức nhiều hơn thời cơ thuận lợi. Hoạt động sản xuất
của các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh tiếp tục gặp nhiều khó khăn vì thiếu hụt
đơn hàng, chuỗi cung ứng hàng hóa trên thị trường chậm, xuất khẩu giảm mạnh,
giảm sản lượng sản xuất, giảm doanh thu, giảm nộp ngân sách Nhà nước. Bên cạnh
đó lĩnh vực đất đai cũng giảm sâu do thị trường bất động sản bị ngưng trệ,
nhiều dự án lớn theo quy hoạch của tỉnh vẫn chưa có nhà đầu tư. Tình hình kinh
doanh của các doanh nghiệp không khả quan đã làm cho người lao động thiếu việc
làm, thu nhập giảm, lãi suất vay ngân hàng tăng, dẫn đến các giao dịch mua bán
nhà đất, ô tô, xe máy, giao dịch chuyển mục đích sử dụng đất trong dân cũng
giảm mạnh, ảnh hưởng đến số thu thuế thu nhập cá nhân, thu lệ phí trước bạ và
tiền sử dụng đất. Mặt khác, tác động từ cơ chế, chính sách miễn giảm, gia hạn
thuế, phí, lệ phí theo Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 30/01/2022 đến kết quả thu
ngân sách Nhà nước, dự kiến ảnh hưởng và giảm thu ngân sách là 1.273 tỷ đồng.
Tổng thu ngân sách Nhà nước trên địa bàn 9 tháng đầu
năm 2023 đạt 31.982,14 tỷ đồng (), giảm
12,37% so với cùng kỳ. Trong đó: Thu nội địa ước đạt 30.709,87 tỷ đồng, giảm
11,55%. Một số khoản thu giảm so cùng kỳ như: khu vực doanh nghiệp nhà nước đạt
2.319,72 tỷ đồng, giảm 6,2%; Thu từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đạt
10.694,01 tỷ đồng, giảm 3,67%; Thu từ khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đạt
5.935,37 tỷ đồng, giảm 6,89%; Thuế thu nhập cá nhân đạt 4.822,06 tỷ đồng, giảm
6,18%; Các khoản thu về nhà đất đạt 2.232,18 tỷ đồng, giảm 53%...; Thu cân đối hoạt động xuất nhập khẩu
đạt 1.148,22 tỷ đồng, giảm 32,39% so cùng kỳ.
Chi ngân sách 9 tháng đầu năm về
cơ bản đã đáp ứng đủ và kịp thời kinh phí cho hoạt động của các cơ quan, đơn
vị, đảm bảo kinh phí thực hiện chi lương, chi trợ cấp cho các đối tượng bảo trợ
xã hội và các chính sách an sinh xã hội, đồng thời thực hiện tốt việc tiết
kiệm, chống lãng phí trong sử dụng kinh phí ngân sách đảm bảo các nhiệm vụ chi
về chính sách chế độ cho các đối tượng chính sách và người lao động.
Dự ước tổng chi ngân sách Nhà
nước 9 tháng đầu năm đạt 22.352,98 tỷ đồng, giảm 10,56% so cùng kỳ. Trong đó:
Chi đầu tư phát triển đạt 10.128,36 tỷ đồng, giảm 3,16%; Chi thường xuyên đạt
12.220,42 tỷ đồng, giảm 10,86% so cùng kỳ.
Tỷ lệ giải ngân vốn đầu tư công 9
tháng đầu năm chưa cao do một số dự án bố trí vốn khởi công mới năm 2023 đang
thực hiện thiết kế bản vẽ thi công, dự toán, trình thẩm định... nên chỉ thanh
toán phần khối lượng tư vấn; một số dự án phải thực hiện bồi thường giải phóng
mặt bằng và chưa hoàn thành thủ tục chi trả nên các tháng đầu năm chưa có khối
lượng để thanh toán; nguồn dự phòng chưa phân bổ, giải ngân.
b) Hoạt động ngân hàng
Trên
địa bàn tỉnh hiện có 60 chi nhánh ngân hàng (của 42 ngân hàng), 221 phòng giao dịch trực thuộc và 22 chi nhánh
ngân hàng cấp 2; 34 Quỹ tín dụng nhân dân (QTDND); 05 chi nhánh tổ chức tài
chính vi mô TNHH MTV cho người lao động nghèo tự tạo việc làm (CEP).
Kết
quả huy động vốn và hoạt động tín dụng trên địa bàn như sau:
Tổng nguồn vốn huy động của các TCTD
trên địa bàn ước đến 30/9/2023 đạt 298.129 tỷ
đồng, tăng 3,62% so đầu năm. Trong đó: Tiền gửi ước đạt 295.229 tỷ đồng, tăng 3,59%
so với đầu năm (Tiền gửi bằng đồng Việt
Nam ước đạt 280.010 tỷ đồng, tăng 5,45%; Tiền gửi bằng ngoại tệ ước đạt 15.219
tỷ đồng, giảm 21,81%).
Lãi
suất tiền gửi bằng VND bình
quân của Ngân hàng Thương mại trong nước ở mức 0,2%/năm đối với tiền gửi không kỳ hạn và có
kỳ hạn dưới 1 tháng; mức 4,1-4,6%/năm
đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 1 tháng đến dưới 6 tháng; mức 7,1-8,3%/năm đối với tiền gửi có kỳ
hạn từ 6 tháng đến 12 tháng; mức
7,3-8,5%/năm đối với tiền gửi có kỳ hạn từ trên 12 tháng đến 24 tháng và mức 7,2- 8,6%/năm đối với kỳ hạn trên
24 tháng. Lãi suất huy động
tiền gửi ngoại tệ tiếp tục duy trì ở mức 0%.
Tổng
dư nợ cấp tín dụng trên địa bàn đến 30/9/2023 ước đạt 353.150
tỷ đồng, tăng 6,72% so với
đầu năm (trong
đó nợ xấu ước chiếm 1,1% trên tổng dư nợ cho vay).
Trong đó: Tổng dư nợ cho vay ước đạt:
355.250 tỷ đồng, tăng 6,64% so đầu năm (dư nợ ngắn hạn đạt 213.050
tỷ đồng, tăng 9,71%; dư nợ trung, dài hạn ước đạt 140.100 tỷ đồng, tăng 2,48%).
Lãi suất cho vay bình quân
của NHTM trong nước đối với các khoản cho vay mới và cũ còn dư nợ ở mức
9,3-11,4%/năm. Lãi suất cho vay ngắn
hạn bình quân bằng VND đối
với lĩnh vực ưu tiên khoảng 4,2%/năm. Lãi suất cho vay USD bình
quân của NHTM trong nước đối với các khoản cho vay mới và cũ còn dư nợ ở mức
4,4 - 5,5%/năm đối với ngắn hạn; 5,9- 7,5%/năm đối với trung và dài hạn.
3. Vốn đầu tư phát triển
Dự ước tình hình thực hiện vốn đầu tư trên địa bàn tỉnh
quý 3/2023 thực hiện 31.790 tỷ đồng, tăng 13,43 so quý 2/2023 và tăng 20,15% so
cùng kỳ. trong đó vốn ngân sách nhà nước đạt 3.303,4 tỷ đồng, tăng 29,29%; Vốn
ngoài nhà nước đạt 14.753,7 tỷ đồng, tăng 11,62%; vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài đạt 13.176,9
tỷ đồng, tăng 12,11%; Vốn huy động khác đạt 555,9 tỷ đồng, tăng 11,19% so quý II/2023.
Dự
ước 9 tháng đầu năm 2023 tổng vốn đầu tư xã hội trên địa bàn tỉnh thực hiện
83.617,9 tỷ đồng, tăng 16,25% so cùng kỳ, trong đó vốn khu vực nhà nước đạt
7.904,19 tỷ đồng, tăng 24,07%; vốn ngoài nhà nước đạt 38.651,4 tỷ đồng, tăng
17,76%; vốn đầu tư nước ngoài đạt 35.556,8 tỷ đồng, tăng 13,24%; Vốn huy động
khác đạt 1.505,6 tỷ đồng, tăng 12,82%. Nguyên nhân nguồn vốn đầu tư tăng mặc dù
trong giai đoạn khủng hoảng kinh tế, sản xuất kinh doanh gặp khó khăn nhưng một
số doanh nghiệp đầu tư mở rộng nhà xưởng và đầu tư sữa chữa, mua sắm tài sản cố
định. Đặc biệt khu vực kinh tế ngoài
nhà nước năng động, có tiềm lực phát triển nhanh, nguồn vốn đầu tư thực hiện
của khu vực này tăng trưởng trong những năm gần đây, giúp nâng cao năng lực nội
sinh của sự phát triển nền kinh tế. Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài dự ước 9
tháng đầu năm tăng cao (+13,24%) do thu hút vốn FDI tiếp tục đạt kết quả cao
nhiều dự án khởi công xây dựng, mặt khác các doanh nghiệp tiếp tục đầu tư mở
rộng sản xuất, tăng qui mô năng lực sản xuất. Tình hình thực hiện
các nguồn vốn như sau:
4. Hoạt động xây dựng
Tình
hình hoạt động xây dựng 9 tháng đầu năm 2023 dù còn gặp khó khăn, tuy nhiên có
bước chuyển biến tích cực, các công trình xây dựng đang được đẩy mạnh tiến độ
thi công, đảm bảo kế hoạch, đáp ứng yêu cầu của các chủ đầu tư. Nhiều doanh
nghiệp đã xây dựng tiêu chí gắt gao nhằm đảm bảo chất lượng công trình và an
toàn lao động, nâng cao hiệu quả hoạt động, phát huy nội lực vốn có của doanh
nghiệp, tạo sự phát triển bền vững góp phần vào tăng trưởng kinh tế - xã hội
trên địa bàn tỉnh. Hàng loạt dự án trọng điểm quốc gia về giao thông trên địa bàn
tỉnh đang khẩn trương thi công, đặc biệt trong tháng 8/2023 Sân bay quốc tế
Long Thành khởi công dự án nhà ga hành khách có vốn đầu tư 35.000 tỷ đồng, khu
tái định cư sân bay Long Thành, đường cao tốc Thành phố Hồ Chí Minh - Biên Hòa
- Dầu Giây, đường cao tốc Biên Hòa - Vũng Tàu giai đoạn 1, cầu nối Nhơn Trạch
với Thành phố Hồ Chí Minh, hình thành khu đô thị mới Nhơn Trạch, các công trình
thuộc dự án đầu tư từ các nguồn ngân sách nhà nước. Bên cạnh đó, Đồng Nai có nguồn nhân lực khá
dồi dào, phần lớn là lực lượng lao động trẻ, có tay nghề đáp ứng tốt nhu cầu
của ngành xây dựng. Với sự nhạy bén, thích ứng linh hoạt, quản trị tốt,
khắc phục khó khăn, các doanh nghiệp và các nhà thầu vẫn tiếp tục tập trung đẩy
mạnh tiến độ thi công, đảm bảo tiến độ công trình theo kế hoạch của các chủ đầu
tư nên hoạt động xây dựng 9 tháng tăng
cao so cùng kỳ.
Dự
ước giá trị sản xuất ngành xây dựng (theo giá hiện hành) trên địa bàn quý
3/2023 đạt 21.271,1 tỷ đồng, tăng 15,45% so với quý trước và tăng 11,92% so
cùng kỳ năm trước, trong đó:
- Doanh nghiệp nhà nước: Dự ước giá trị sản xuất xây dựng
khu vực doanh nghiệp nhà nước theo giá hiện hành quý 3/2023 thực hiện 180,9 tỷ
đồng, tăng 91,01% so với quý 2/2023 và tăng 171,53 tỷ đồng so với cùng kỳ. Hiện
nay, trên địa bàn tỉnh Đồng Nai doanh nghiệp nhà nước đã cổ phần hóa toàn bộ
nên giá trị sản xuất xây dựng khu vực này chủ yếu do doanh nghiệp nhà nước
ngoài tỉnh thực hiện.
5. Thu hút đầu tư và đăng ký doanh nghiệp
Đến ngày 20/9/2023, thu
hút đầu tư nước ngoài (FDI) trên địa bàn tỉnh đạt khoảng
961,64 triệu USD, tăng 5,44% so với cùng kỳ, trong đó: cấp mới 49 dự án với
tổng vốn đăng ký 246,77 triệu USD (so với cùng kỳ năm 2022, giảm 34,52% về vốn
đăng ký cấp mới) và 77 dự án tăng vốn với tổng vốn bổ sung 714,87 triệu USD (so
với cùng kỳ năm 2022, tăng 33,58% về vốn bổ sung).
Tính
từ đầu năm 2023 đến ngày 20/9/2023, tổng vốn đầu tư trong nước đăng ký cấp giấy
chứng nhận đầu tư, chủ trương đầu tư (chưa bao gồm các dự án trúng đấu giá, đầu
thầu) và điều chỉnh tăng, giảm vốn khoảng 10.757,18 tỷ đồng, gấp hơn 5,5 lần so
với cùng kỳ năm 2022. Trong đó: cấp mới 18 dự án (trong khu công nghiệp 11 dự
án, ngoài khu công nghiệp 07 dự án) với tổng vốn đăng ký là 6.058,56 tỷ đồng;
có 09 dự án tăng vốn (trong khu công nghiệp 06 dự án, ngoài khu công nghiệp 03
dự án) với số vốn bổ sung là 4.718,624 tỷ đồng; có 01 dự án (trong khu công
nghiệp) giảm vốn với số vốn giảm là 20 tỷ đồng. Lũy kế đến ngày 20/9/2023, số
dự án còn hiệu lực là 1.091 dự án với số vốn hơn 317.043 tỷ đồng.
Tính từ ngày 01/01/2023 đến ngày
15/09/2023, tổng vốn đăng ký thành lập mới doanh nghiệp và bổ sung tăng vốn là:
46.885 tỷ đồng, giảm 13,17% so cùng kỳ. Trong đó, có 2.824 doanh nghiệp đăng ký
thành lập mới với tổng vốn đăng ký khoảng 21.244 tỷ đồng và 863 doanh nghiệp
đăng ký tăng vốn với số vốn bổ sung khoảng 25.641 tỷ đồng. Ngoài ra có 1.463
Chi nhánh, địa điểm kinh doanh và văn phòng đại diện đăng ký hoạt động trên địa
bàn tỉnh, bằng 86, % so với cùng kỳ năm 2022.
6. Sản xuất Nông - Lâm nghiệp và thủy sản
Chín tháng đầu năm 2023 sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản
tương đối ổn định, thời tiết thuận lợi cho cây trồng phát triển, tiến độ gieo
trồng vụ Mùa đạt khá, sản lượng thu hoạch và năng suất cây trồng vụ Đông
Xuân và vụ Hè Thu tăng so cùng kỳ; Công tác tái đàn đối với con heo ở nhiều hộ
và trang trại chăn nuôi lớn đang có chuyển biến tích cực do giá heo hơi luôn ở
mức hợp lý, dịch bệnh và kiểm dịch được kiểm soát chặt chẽ. Tuy nhiên do giá
xăng dầu, giá vật tư nông nghiệp, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật… tăng cao,
đặc biệt là thức ăn chăn nuôi gia súc, gia cầm tăng cao, làm cho giá thành sản
phẩm hàng hóa nông sản tăng nên người sản xuất nông nghiệp chưa có lãi nhiều. Hoạt
động lâm nghiệp và thủy sản phát triển ổn định, sản lượng đáp ứng nhu cầu
thị trường tiêu thụ.
Dự
ước giá trị sản xuất nông, lâm, thủy sản (giá
SS 2010) 9 tháng đầu năm 2023 ước đạt 37.412,8 tỷ đồng, tăng 3,69% so cùng
kỳ. Trong đó: Giá trị sản xuất nông nghiệp đạt 34.049,3 tỷ đồng, tăng 3,71% (trồng trọt tăng 2,15%; chăn nuôi tăng 4,70%;
dịch vụ tăng 1,79%); Giá trị sản xuất lâm nghiệp đạt 1.426,8 tỷ đồng, tăng
1,95%; Giá trị sản xuất thủy sản đạt 1.936,6 tỷ đồng, tăng 4,73%.
6.1. Nông nghiệp
a) Cây hàng năm
Thời tiết thuận lợi cho các cây trồng vụ Mùa phát triển,
đến nay vụ Hè Thu đã thu hoạch xong nên người dân tập trung xuống giống một số
cây trồng vụ Mùa. Tổng diện tích gieo trồng cây hàng năm 9 tháng đầu năm 2023
đạt 134.424,26 ha, giảm 754,81 ha (-0,56%) so cùng kỳ.
Diện tích gieo trồng vụ Đông Xuân đạt 39.535,41 ha,
giảm 426,15 ha (-1,07%) so với cùng kỳ. Diện tích gieo trồng vụ Đông Xuân giảm do
một số diện tích thu hoạch vụ Mùa năm 2022 chậm nên người dân chưa chuẩn bị các
khâu làm đất để xuống giống, một số chân ruộng lúa cao không đủ nước để gieo
trồng, hơn nữa hiện nay hầu hết diện tích gieo trồng có xu hướng giảm dần do
công tác quy hoạch, xây dựng, cho thuê v.v…Dự ước năng suất một số cây trồng
chính tăng, giảm trong vụ Đông Xuân so cùng kỳ như sau: Năng suất lúa đạt 66,45
tạ/ha, tăng 0,87%; bắp đạt 89 tạ/ha, giảm 1,22%; khoai lang đạt 112,46 tạ/ha,
tăng 0,02%; rau các loại đạt 168,71 tạ/ha, tăng 5,22%; đậu các loại đạt 14,3
tạ/ha, tăng 3,41%. Năng suất cây trồng tăng là do người dân xuống giống đúng
vụ, chủ động nguồn nước tưới, thực hiện tốt khâu chăm bón, phòng chống dịch
bệnh nên ít bị thiệt hại.
Tổng diện tích gieo trồng vụ Hè Thu là 56.377,93 ha, giảm
333,16 ha (-0,59%) so với cùng kỳ. Nguyên nhân giảm
do công tác quy hoạch của địa phương làm ảnh hưởng đến việc gieo trồng, một số
diện tích không chủ động được nguồn nước tưới, bên cạnh đó một số địa phương
chuyển đổi cơ cấu cây trồng sang cây ăn quả cho năng suất sản lượng cao và ổn
định hơn…. Dự ước năng suất một số cây trồng chính tăng, giảm trong vụ Hè
Thu so cùng kỳ như sau: Nhóm cây lương
thực vẫn duy trì được năng suất, cụ thể như lúa đạt: 58,17 tạ/ha, tăng 0,68
tạ/ha (+1,19%); bắp đạt: 80,44 tạ/ha, tăng 2,36 tạ/ha (+3,02%); Nhóm cây củ có
bột năng suất tăng so cùng kỳ bởi hầu hết các loại cây trồng này không đòi hỏi
nhiều tới nguồn nước như: khoai lang tăng 0,03%; khoai mỳ tăng 2,91%; Nhóm rau các loại đạt 69,59 tạ/ha, giảm
0,02%; Nhóm đậu đỗ các loại đạt
13,49 tạ/ha, tăng 3,15%.
Sản
lượng thu hoạch cây một số cây trồng vụ Hè thu năm 2023 tăng, giảm so cùng kỳ
như sau: Sản lượng lúa 109.571,61 tấn, giảm 719,73 tấn (-0,65%); bắp 107.790,8
tấn, tăng 2.729,27 tấn (+2,6%); sắn:
243.076,06 tấn, tăng 554,95 tấn (+0,23%), mía 185.956,57 tấn, giảm 20.809 tấn
(-10,06%), đậu tương 145 tấn, tăng 42,47 tấn (41,42%), Lạc 919,84 tấn, tăng
12,06 tấn (+1,33%); rau các loại 101.533,28 tấn, tăng 4.950,44 tấn (+5,13%);
Đậu các loại 1.598,21 tấn, tăng 86,86 tấn (+5,75%) so với cùng kỳ… Sản lượng
của các cây trồng này tăng chủ yếu là do năng suất cây trồng tăng và người dân
đã áp dụng các biện pháp khoa học, kỹ thuật vào trong sản xuất như sử dụng các
loại giống mới có điều kiện sinh trưởng thích ứng với thổ nhưỡng và khí hậu
từng vùng, bên cạnh đó người dân đã tập trung đầu tư nhiều vào những cây có thị
trường tiêu thụ xã hội cao và ổn định. Tuy nhiên một số cây có sản lượng giảm
nguyên nhân chủ yếu là do diện tích giảm, dẫn đến sản lượng giảm so cùng kỳ.
Tiến
độ gieo trồng vụ Mùa năm 2023: Dự ước tổng diện tích gieo trồng đến ngày
15/9/2023 đạt 46.200,7 ha, giảm 0,34% so cùng kỳ. Trong đó: diện tích lúa đạt
17.972 ha, giảm 0,57%; diện tích bắp đạt 12.385 ha, giảm 0,28%, diện tích khoai
lang đạt 81 ha, giảm 2,52%; khoai mì đạt 2.656 ha, giảm 2,08%; mía đạt 893 ha,
giảm 0,63%; rau các loại đạt 6.133 ha, tăng 0,36%; đậu các loại đạt 1.302 ha,
tăng 0,5% so với cùng kỳ.
Về
thủy lợi, phòng chống thiên tai: Các
ngành chức năng phối hợp với địa phương theo dõi tình hình nguồn nước, tình
hình mưa, lưu lượng dòng chảy, độ mặn tại các công trình thủy lợi trên địa bàn
tỉnh. Hiện nay thời tiết trên địa bàn tỉnh đang trong mùa mưa, nguồn nước đảm
bảo phục vụ sản xuất và sinh hoạt theo kế hoạch, chưa xảy ra tình trạng thiếu
nước tưới, xâm nhập mặn ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp.
b) Cây lâu năm
Tình
hình sản xuất cây lâu năm trên địa bàn tỉnh tương đối ổn định, về thời tiết khí hậu khá thuận lợi cho cây trồng phát
triển, hiện nay vẫn đang trong mùa mưa nhưng không gây thiệt hại đối với các
loại cây ăn quả lâu năm; dịch bệnh có phát sinh nhưng ở thể nhẹ, không ảnh
hưởng nhiều đến sinh trưởng và phát triển cây trồng; công tác tưới tiêu cho cây
trồng luôn được các cấp, các ngành địa phương quan tâm. Tổng diện tích cây lâu năm hiện có là 170.850,74
ha, tăng 0,51% (+861 ha) so cùng kỳ, trong đó:
Diện
tích cây ăn quả là 77.638 ha, chiếm 45,44% tổng điện tích, tăng 1,29% so cùng
kỳ. Nguyên nhân diện
tích cây ăn quả tăng là do giá bán khá ổn định như xoài, chuối, bưởi, quýt, sầu
riêng và có thuận lợi là phù hợp với thổ nhưỡng đất, mặt khác sản lưởng các cây
ăn quả này cũng tăng cao do người dân tập trung đầu tư chăm sóc, ứng dụng các
tiến bộ khoa học, kỹ thuật,... nên người dân chuyển đổi sang trồng cây ăn quả
do đạt hiệu quả kinh tế cao.
Diện tích cây công nghiệp lâu năm
là 93.212,73 ha, chiếm 54,56% so với tổng diện tích, giảm 0,14% so với cùng kỳ. Hiện nay nhóm cây công
nghiệp lâu năm như Điều, Tiêu, Cao su có xu hướng giảm do người dân không chú
trọng đầu tư thâm canh và chăm sóc, một số diện tích bị chặt bỏ để chuyển sang
trồng cây ăn quả và thực hiện các dự án theo định hướng phát triển của tỉnh.
Dự ước sản lượng thu hoạch một số loại cây trồng chính trong 9
tháng đầu năm 2023 như
sau: Xoài đạt
87.406,6 tấn, tăng 0,7%; Chuối đạt 151.853,3 tấn, tăng 13,83%; Thanh long đạt 11.522,4 tấn, tăng 1,1%; Cam đạt 8.146,3 tấn, giảm 11,51%;
Bưởi 65.532,5 tấn, tăng 14,76%; Chôm chôm 152.103,4 tấn, giảm
1,28%;
Điều đạt 39.481 tấn, giảm
3,88%; Hồ tiêu đạt 27.833 tấn, giảm 1,38%; Cao su
đạt 30.401 tấn, tăng 3,92% so cùng kỳ.
c)
Chăn nuôi
Hoạt
động chăn nuôi 9 tháng đầu
năm phát triển ổn định, dịch bệnh trên đối tượng vật nuôi được kiểm soát tốt, trong
tháng không phát sinh các dịch bệnh trên gia súc, gia cầm. Ngành chăn nuôi triển khai các giải
pháp chăn nuôi an toàn sinh học, phòng chống dịch bệnh góp phần tái đàn có hiệu
quả. Công tác kiểm dịch và kiểm soát giết mổ, phúc kiểm động vật được kiểm tra
chặt chẽ tại các chốt, các cơ sở giết mổ. Tổng đàn gia súc có đến thời điểm
tháng 9/2023
là 2.535.866 con, giảm 8% so cùng kỳ. Trong đó:
Đàn trâu đạt 3.937 con, tăng 0,46%;
Bò đạt 95.801 con, tăng 4,23%; Số lượng đàn trâu, bò tăng là do sản phẩm thịt
gia súc phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng xã hội cao, nên các hộ chăn nuôi trâu, bò
đầu tư thêm con giống để nuôi, bên cạnh đó người dân cũng mạnh dạn đầu tư cải
tạo đàn bò theo hướng bò thịt tăng thu nhập trong chăn nuôi. Sản lượng thịt
trâu quý III/2023 đạt 68,1 tấn, giảm 5,91%, lũy kế 9 tháng đầu năm đạt 204,9
tấn, tăng 8,59%; Sản lượng thịt bò quý III/2023 đạt 1.247,9 tấn, tăng 1,28%;
lũy kế 9 tháng đầu năm đạt 3.756,6 tấn, tăng 7,52% so cùng kỳ.
Đàn heo đạt 2.436.128
con (không tính heo con chưa
tách mẹ), giảm 8,44% so
cùng kỳ. Nguyên nhân đàn heo giảm là do chi phí đầu vào thời gian qua tăng cao chủ
yếu là giá thức ăn chăn nuôi heo hiện tăng gấp nhiều lần so với trước, những
tháng đầu năm giá heo hơi bán ra ở mức dưới giá thành sản xuất khiến người chăn
nuôi gặp rất nhiều khó khăn. Bên cạnh đó, thị trường nội địa đang quá tải vì
sản phẩm chăn nuôi không xuất khẩu được như kỳ vọng. Mặt khác, thị trường tiêu
thụ có xu hướng giảm hơn vì kinh tế khó khăn, nhiều doanh nghiệp không có đơn
hàng phải tạm ngừng sản xuất hoặc thu hẹp quy mô sản xuất, các bếp ăn tập thể
tiêu thụ chậm sản phẩm chăn nuôi heo, do vậy người chăn nuôi cũng cân nhắc
trong việc tái đàn. Mặt khác việc di dời các dự án chăn nuôi ra khỏi khu vực
không được phép chăn nuôi tiếp tục đẩy mạnh thực hiện tại các địa phương, một
số huyện có số lượng chăn nuôi heo lớn như Thống Nhất, Xuân Lộc tiến hành rà
soát các khu vực chăn nuôi, kiên quyết di dời hoặc nghiêm cấm các hộ, trang
trại chăn nuôi dẫn đến tổng đàn giảm. Giá heo hơi trên địa bàn tỉnh đến ngày
17/9/2023 giao động trong khoảng từ 55.000 đến 58.000 đồng/kg. Sản lượng thịt
heo quý III/2023 đạt 116.124,7 tấn, tăng 5,42%; lũy kế 9 tháng đầu năm đạt 365.231
tấn, tăng 6,2% so cùng kỳ. Số con heo xuất chuồng 9 tháng là 3.699.785 con,
tăng 6,46% so cùng kỳ.
Tổng đàn gia cầm đến thời điểm
tháng 9/2023 dự ước là 25.553,73 nghìn con, giảm 6,71% so cùng kỳ, trong đó gà đạt 23.154,36
nghìn con, giảm 6,28%. Nguyên nhân đàn gà giảm là do việc thực hiện di dời hoặc
buộc ngưng hoạt động do nằm trong khu dân cư, không có giấy phép về môi trường
khiến cho các cơ sở chăn nuôi gặp nhiều khó khăn như thiếu nguồn vốn để mua
đất, đầu tư cơ sở hạ tầng chăn nuôi tại địa điểm mới. Bên cạnh đó, giá tiêu thụ
gà công nghiệp giảm sâu, dao động từ 20.000 đến 30.000 đồng/kg, trong khi đó
giá thức ăn chăn nuôi vẫn tiếp tục đứng ở mức cao và nhiều chi phí phát sinh,
nhiều trại phải “treo” chuồng hoặc bỏ nghề vì càng nuôi càng lỗ. Sản lượng thịt
gia cầm quý III/2023 đạt 49.372 tấn, tăng 2,79%; lũy kế 9 tháng đầu năm ước đạt 148.257,26 tấn, tăng 6,66%, trong đó thịt gà 130.279,1 tấn, tăng 7,01%; Sản lượng trứng gia cầm ước đạt 1.017,5 triệu quả, tăng 6,58% so cùng kỳ.
6.2.
Lâm nghiệp
Trong tháng 9/2023 sản lượng gỗ khai thác dự ước đạt 26.946,9 m3, ước quý III/2023 đạt 84.301 m3,
tăng 2,57%; lũy kế 9 tháng đầu năm đạt 224.766 m3, tăng 2,27% so cùng kỳ, nguyên nhân tăng là do diện tích rừng sản xuất đã đến kỳ
thu hoạch và một số diện tích
khai thác tận thu dự án chuyển đổi quy hoạch. Sản lượng củi khai thác dự ước tháng 9/2023 đạt 453 ste; ước quý III/2023 đạt 1.373,3 ste,
tăng 1,49%; lũy kế 9 tháng đạt 2.820,5 ste, tăng 1,99% so cùng kỳ.
Trong 9 tháng đầu năm 2023, trên
địa bàn tỉnh xảy ra 02 vụ cháy rừng (vào tháng 02/2023 và tháng 4/2023) tại
huyện Vĩnh Cửu, tổng diện tích rừng bị thiệt hại là 1,63 ha rừng (rừng sản
xuất). Nguyên nhân do người dân đốt dọn nương rẫy gây cháy lan. Diện tích rừng
bị chặt, phá là 1,09 ha rừng.
Công tác PCCCR và quản lý bảo vệ rừng: Công
tác PCCCR là nhiệm vụ chiến lược trọng tâm hàng đầu của ngành Lâm nghiệp trong
việc hướng dẫn, đôn đốc các địa phương và đơn vị chủ rừng thực hiện tốt công
tác trực, sẵn sàng lực lượng, phương tiện chữa cháy, cứu nạn cứu hộ kịp thời,
hiệu quả, an toàn khi có cháy rừng xảy ra; kiểm tra các địa bàn trọng điểm có
nguy cơ cháy rừng cao. Thường xuyên theo dõi thông tin cảnh báo cháy rừng, tọa
độ các điểm cháy qua ảnh vệ tinh trên hệ thống thông tin cảnh báo sớm, xác minh
điểm cháy ngoài thực địa để có biện pháp xử lý phù hợp.
6.3.
Thủy sản
Ước
tính tổng sản lượng thủy sản tháng 9/2023 đạt 6.376,5 tấn, tăng 4,21% so cùng
kỳ; ước quý III/2023 đạt 19.187,9 tấn, tăng 5,31%; lũy kế 9 tháng đầu năm ước
đạt 54.521,7 tấn, tăng 4,71% so cùng kỳ. Trong đó: Sản lượng cá ước quý
III/2023 đạt 15.937 tấn, tăng 5,29%; lũy kế 9 tháng đạt 44.222,8 tấn, tăng 4,6%; Sản lượng tôm quý III/2023 đạt 2.208,6
tấn, tăng 6,83%; lũy kế 9 tháng đạt 7.918,2 tấn, tăng 5,96%; Sản lượng thủy sản khác quý III/2023 đạt
1.042,3 tấn, tăng 2,42%; lũy kế 9 tháng đạt 2.380,7 tấn, tăng 2,74%. Nguyên
nhân tăng là do nhu cầu thị trường tiêu thụ xã hội ngày một tăng, sản phẩm thủy
sản được người tiêu dùng sử dụng nhiều, giá bán sản phẩm thủy sản tăng cao, do
đó nhiều hộ dân chủ động mở rộng diện tích nuôi trồng, áp dụng khoa học kỹ thuật, chăm sóc con giống,
vật nuôi, nhằm hạn chế dịch bệnh phát sinh, nên sản lượng thủy sản quý III/2023
và 9 tháng đầu năm tăng khá so cùng kỳ.
7.
Thương mại du lịch, giá cả, xuất nhập khẩu và vận tải
7.1.
Thương mại dịch vụ
Hoạt động kinh doanh thương mại, dịch vụ
tiêu dùng 9 tháng năm 2023 khá ổn định ở tất cả các ngành và đạt mức tăng khá
cao so với cùng kỳ; Thị trường các mặt hàng thiết yếu tiếp tục được giữ ổn
định, nguồn cung hàng hóa bảo đảm, giá hàng hóa không có biến động bất thường.
Trung tâm Xúc tiến thương mại tỉnh phối hợp với các đơn vị tổ chức và tham gia
nhiều hoạt động thương mại nhằm kết nối giao thương, quảng bá sản phẩm, tập
trung vào các sản phẩm thế mạnh của tỉnh như: Hàng gia dụng, nông sản chế biến,
sản phẩm hỗ trợ công nghiệp…bên cạnh đó, các đơn vị kinh doanh tập trung phát
triển thị trường trong nước, mở rộng mạng lưới phân phối bán buôn, bán lẻ và đa
dạng nhiều hình thức, hàng hóa, dịch vụ đã góp phần tăng doanh thu ngành thương
mại, dịch vụ trên địa bàn.
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu
dùng tháng Chín năm tăng 2,3% so với tháng trước và tăng 10,9% so với cùng kỳ
năm 2022. Tính chung 9 tháng năm 2023, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu
dịch vụ tiêu dùng đạt 193.024 tỷ đồng, tăng 13,37% so với cùng kỳ năm trước.
Phân theo ngành hoạt động như sau:
a)
Bán lẻ hàng hóa
Doanh thu bán lẻ hàng hóa tháng 9 ước đạt 16.325,36 tỷ
đồng, tăng 2,38% so với tháng trước. Quý III/2023 ước đạt 47.902,43 tỷ đồng,
tăng 4,38% so với quý trước và tăng 8,22% so với quý cùng kỳ. Tính chung 9
tháng doanh thu bán lẻ ước đạt 140.819,06 tỷ đồng, tăng 10,31% so với cùng kỳ
năm trước. So với cùng kỳ, hầu hết các nhóm hàng đều có mức tăng, trong đó: Lương thực, thực
phẩm tăng 7,73%, hàng may mặc tăng 23,14%; dồ dùng,
dụng cụ, thiết bị gia đình tăng 9,23%; Vật phẩm, văn
hóa, giáo dục tăng 23,65%; xăng dầu các loại tăng 13% ...
b)
Lưu trú, ăn uống, du lịch lữ hành
Dự ước doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống tháng 9 năm
2023 đạt 2.198,76 tỷ đồng, tăng 3,84% so với tháng trước. Quý III ước đạt
6.424,65 tỷ đồng, tăng 23,34% so quý cùng kỳ. Tính chung 9 tháng doanh thu dịch
vụ lưu trú, ăn uống ước đạt 18.705,93 tỷ đồng, tăng 23,09% so cùng kỳ, trong
đó: Doanh thu lưu trú tăng 53,59%; Doanh thu dịch vụ ăn uống tăng 22,8%.
Doanh thu du lịch lữ hành tháng 9 ước
đạt 5,9 tỷ đồng, tăng 3,61% so với tháng trước. Quý III ước đạt 17,5 tỷ đồng,
tăng 37,14% so quý cùng kỳ năm trước. Tính chung 9 tháng ước đạt 50,7 tỷ đồng,
tăng 123,04% so cùng kỳ. Chín tháng năm 2023 các cơ sở kinh doanh du lịch đã
từng bước phục hồi và phát triển, tập trung đầu tư cơ sở vật chất nhằm thu hút
và phục vụ nhu cầu du lịch người dân trong ngày nghỉ cuối tuần và các dịp Lễ,
tết... Sản phẩm du lịch của tỉnh phát triển tại các địa phương như: Vĩnh Cửu,
Tân Phú, Định Quán và TP. Long Khánh thu hút được lượng khách đến tham quan
nghỉ dưỡng, đến nay các điểm du lịch cơ bản đáp ứng nhu cầu vui chơi giải
trí, nghỉ dưỡng của các du khách trong, ngoài tỉnh...
c)
Hoạt động dịch vụ
Doanh thu dịch vụ tháng 9 năm 2023 ước đạt 3.800,26 tỷ
đồng, tăng 1,07% so với tháng trước. Dự ước quý III đạt 11.303,07 tỷ đồng, tăng
20,6% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 9 tháng ước đạt 33.448,23 tỷ đồng,
tăng 22,11% so cùng kỳ. Một số ngành kinh doanh dịch vụ tăng so với cùng kỳ
như: Dịch vụ hành chính và hỗ trợ tăng 12,96%; dịch vụ Giáo dục và Đào tạo tăng
31,73%; dịch vụ y tế và hoạt động trợ giúp xã hội tăng 21,56%; dịch vụ nghệ
thuật, vui chơi giải trí tăng 20,95%...
7.2.
Giá cả thị trường
Giá các mặt hàng thiết yếu tháng 9 năm 2023 không có
biến động bất thường, nguồn cung được bảo đảm, giá hàng hóa tăng, giảm đan xen.
Do ảnh hưởng của giá thế giới tăng nên giá xăng dầu, giá gạo
trong nước tăng, giá nhà ở thuê tăng theo nhu cầu là những nguyên nhân chính
làm cho chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 9/2023 tăng 0,52% so với
tháng trước. So với tháng 12/2022, CPI tháng chín tăng 2,1% và so với cùng kỳ
năm trước tăng 2,58%.
Bình
quân 9 tháng, CPI tăng 2,23% so với cùng kỳ năm trước.
So với tháng trước, CPI tháng 9/2023 tăng 0,52% (Khu vực thành thị tăng
0,56%; khu vực nông thôn tăng 0,48%). Trong 11 nhóm hàng hóa và dịch vụ
tiêu dùng chính, có 7 nhóm hàng tăng giá so với tháng trước; riêng nhóm thuốc
và dịch vụ y tế giảm 0,02%. Diễn biến giá tiêu dùng tháng 9/2023 so
với tháng trước của một số nhóm hàng chính như sau:
Hàng
ăn và dịch vụ ăn uống (+0,87%)
Chỉ số giá nhóm hàng
ăn và dịch vụ ăn uống tháng 9/2023 tăng 0,87% so với tháng trước, tác động làm
CPI chung tăng 0,28 điểm phần trăm, trong đó lương thực tăng 4,39%, tác động
tăng 0,16 điểm phần trăm; thực phẩm tăng 0,47%, tác động tăng 0,09 điểm phần
trăm…
+ Lương thực (+4,39%)
Chỉ số giá nhóm lương thực tháng 9/2023 tăng 4,39% so với tháng trước, trong đó chỉ
số giá nhóm gạo tăng 5,41% (gạo tẻ thường
tăng 5,57%; gạo tẻ ngon tăng 4,02%;
gạo nếp tăng 3,13%). Giá gạo trong nước tăng cao theo giá gạo xuất khẩu do lệnh
cấm xuất khẩu gạo của Ấn Độ, Nga, UAE, xung đột chính trị và ảnh hưởng của hiện
tượng El Nino đã khiến thị trường gạo toàn cầu diễn biến phức tạp.
+ Thực phẩm (+0,47%)
Giá thực phẩm tháng 9/2023 tăng 0,47% so với tháng trước, nguyên nhân tăng
chủ yếu ở một số nhóm mặt hàng sau:
Mặc
dù giá heo hơi trong tháng giảm nhẹ nhưng do giá xăng, dầu và chi phí giết mổ
tăng nên giá mặt hàng thịt lợn tiêu dùng tăng, ngoài ra thời điểm này sản lượng
heo thịt cung cấp cho thị trường hạn chế vì thời gian trước các chủ trang trại
hạn chế tái đàn do giá heo giống và giá các mặt hàng thức ăn gia súc tăng cao;
giá mặt hàng thuỷ sản tươi sống tăng 0,33%; thịt heo tăng 0,61%; thịt gà tăng
0,42%. Các mặt hàng thịt chế biến tăng 0,41%;
Giá các mặt hàng rau tươi, khô và chế biến tăng 1,82% chủ
yếu do diễn biến thời tiết mưa nhiều ảnh hưởng đến diện tích canh tác rau, sản lượng cung cấp cho thị trường giảm, chi phí vận
chuyển tăng... nên giá bán tăng như bắp cải tăng 6,22%; cà chua tăng 2,26%; rau
muống tăng 2,35%; quả đỗ tươi tăng 3,22%...
Nhà
ở và vật liệu xây dựng (+0,44%)
Nhóm nhà ở
và vật liệu xây dựng tháng 9
tăng 0,44% so với tháng trước đóng góp vào
mức tăng chung của CPI là 0,09% do
các nguyên nhân chủ yếu sau:
Các
mặt hàng gas và các loại chất đốt khác tăng 8,36% so với tháng trước trong đó
chỉ số giá gas tăng 8,36%; giá dầu hoả tăng 8,12% do ảnh hưởng của giá thế giới tăng.
Bên cạnh đó, một số mặt hàng trong tháng có giá giảm so với tháng trước: Giá
vật liệu bảo dưỡng nhà ở giảm 0,11% do giá thép giảm.
Giá điện sinh hoạt
giảm 0,81% do nhu cầu tiêu dùng giảm khi vào mùa mưa, thời tiết mát.
Thiết
bị và đồ dùng gia đình (+0,15%)
Chỉ số giá nhóm
thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,15% so với tháng trước, tập trung chủ yếu ở
các mặt hàng như: Dịch vụ sửa chữa
thiết bị trong gia đình tăng 0,46%; Giá dịch vụ thuê người giúp việc tăng 0,69%; các mặt hàng điều hoà nhiệt độ
giảm 3,49% so với tháng trước nguyên nhân là thời tiết vào mùa mưa không nắng
nóng nhiều nên nhu cầu sử dụng mặt hàng này không cao.
Giao
thông (+1,33%)
Chỉ số giá nhóm giao
thông tháng 9/2023 tăng 1,33% so với tháng trước làm CPI chung tăng 0,13 điểm
phần trăm, chủ yếu do: Giá các mặt hàng nhiên liệu trong tháng tăng 3,41% trong
đó giá xăng tăng 3,55%; giá dầu DO tăng 5,96% so với tháng trước. Hiện tại giá
bán xăng A95 (III) bình quân: 25.086 đồng/lít; xăng E5: 23.663 đồng/lít; Dầu
DO: 23.013 đồng/lít.
Các
nhóm còn lại có chỉ số giá biến động không đáng kể như: Văn hoá, giải trí và du
lịch (+0,07%); hàng hoá và dịch vụ khác (+0,14%); các nhóm chỉ số giá không
biến động là đồ uống và thuốc lá, bưu chính viễn thông, giáo dục. Riêng thuốc
và dịch vụ y tế giảm 0,02%.
So với
cùng tháng năm trước, CPI tháng
9/2023 tăng 2,58% so với
tháng 9 năm 2022. Trong 11 nhóm hàng tiêu dùng chính có 9 nhóm tăng, trong đó
tăng cao nhất là nhóm giáo dục 5,93%; tăng thấp nhất nhóm thuốc và dịch vụ y tế
tăng 0,09%. Có 02 nhóm hàng hóa giảm là bưu chính viễn thông giảm 0,5%, Văn hoá, giải
trí và du lịch giảm 1,11%.
Chỉ số giá bình quân 9 tháng tăng
2,23% so với cùng kỳ năm trước, trong đó 09 nhóm hàng hoá tăng giá, tăng cao nhất nhóm Giáo dục (+9,91%); Văn hoá, giải
trí và du lịch(+9,74%); Đồ dùng và dịch vụ khác(+4,36%); Hàng ăn và dịch vụ ăn
uống(+3,63%); Đồ uống và thuốc lá (+3,07%); Thiết bị và đồ dùng gia
đình(+2,73%); Nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng(+1,08%); May
mặc, mũ nón và giày dép (+0,6%); Thuốc và dịch vụ y tế(+0,32%). Có 02 nhóm chỉ
số giá giảm là giao thông giảm 4,29%; bưu chính viễn thông giảm 0,42%.
* Chỉ số giá vàng và Đô la Mỹ
Trong tháng giá vàng tăng 0,79% so với tháng trước;
so với cùng tháng năm trước tăng 11,55%; so với tháng 12/2022 tăng 6,48%. Bình
quân 9 tháng năm 2023 tăng 0,79% so với cùng kỳ.
Chỉ số giá Đô la Mỹ tháng 9 tăng 1,6% so tháng
trước; so với cùng tháng năm trước tăng 0,88%; so với tháng 12 năm trước giảm
0,39%. Bình quân 9 tháng so cùng kỳ tăng 0,88%.
7.3. Xuất, nhập khẩu
hàng hóa
Hoạt động xuất, nhập
khẩu tháng 9 có dấu hiệu khả quan hơn, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa tháng 9 dự
ước tăng so tháng trước. Điều này này cho thấy các doanh nghiệp đã rất nỗ lực
trong bối cảnh kinh tế toàn cầu gặp rất nhiều khó khăn thị trường xuất khẩu
giảm mạnh, lạm phát tại các thị trường lớn ở mức cao, tiêu dùng toàn cầu giảm,
xung đột giữa Nga và Ukraine vẫn diễn biến phức tạp, chuỗi cung ứng toàn cầu
đứt gãy, làm cho giá cả nhóm hàng nguyên vật liệu đầu vào phục vụ sản xuất vẫn
duy trì ở mức cao… Trước khó khăn đó các doanh nghiệp xuất khẩu bên cạnh việc
tiếp tục duy trì và đẩy mạnh liên kết với các doanh nghiệp khác tại các thị
trường xuất khẩu chủ lực, chú trọng khai thác thị trường nội địa và tận dụng
Hiệp định thương mại tự do (FTA) tìm kiếm thị trường mới. Cùng với các giải
pháp về thúc đẩy xuất khẩu của Chính phủ, các Bộ, ngành tiếp tục hỗ trợ, tháo
gỡ vướng mắc, khó khăn doanh nghiệp... qua đó doanh nghiệp sản xuất sản phẩm
xuất nhập khẩu có động lực duy trì sản xuất kinh doanh.
Kim
ngạch xuất khẩu hàng hoá tháng 9 năm 2023 ước đạt 2.065,41 triệu USD, tăng 0,86% so với tháng trước và tăng 15,62% so tháng cùng kỳ. So với tháng trước
hầu hết các nhóm hàng xuất khẩu dự ước đều tăng như: Giày dép các loại
(+0,41%); Máy tính, sp, linh kiện điện tử (+1,8%); Xơ, sợi (+0,79%); Phương
tiện vận tải và phụ tùng (+0,72%); Sản phẩm từ chất dẻo (+2,61%); Sản phẩm từ
sắt thép (+0,48%)… các hàng dệt may, xơ, sợi, giày dép là những mặt hàng chủ
lực của địa phương sau nhiều tháng thiếu đơn hàng, đến nay tình hình cải thiện
và có tín hiệu đang khá lên trong các tháng tiếp theo của năm 2023, kỳ vọng kim
ngạch xuất khẩu những tháng cuối năm khá lên do nhu cầu tiêu thụ sản phẩm hàng
hoá dịp cuối năm tăng cao.
Tính chung 9 tháng năm 2023 kim ngạch xuất khẩu
hàng hoá ước đạt 16.404,63 triệu USD, giảm 13,04% so cùng kỳ. Trong đó: kinh
tế nhà nước giảm 17,56%;
kinh tế ngoài nhà nước giảm 9,2%;
kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài giảm 14,68% so cùng kỳ.
Nhằm hỗ trợ xuất khẩu tiếp tục phục hồi, ngành Công Thương
tỉnh phối hợp các đơn vị liên quan tiếp tục đưa ra nhiều giải pháp để hỗ trợ,
tháo gỡ khó khăn vướng mắc và giảm chi phí cho doanh nghiệp để duy trì sản
xuất, đẩy mạnh phát triển thị trường xuất khẩu, ngoài ra, hỗ trợ doanh nghiệp
tận dụng các cam kết, cơ hội từ FTA, đặc biệt là FTA thế hệ mới để đẩy mạnh và
mở rộng thị trường xuất khẩu…
Thị
trường xuất khẩu 9 tháng chủ yếu: Hoa kỳ 4.636,2 triệu USD chiếm 28,26%; Trung
Quốc 1.701 triệu USD chiếm 10,37%; Nhật Bản 1.702 triệu USD chiếm 10,38%; Hàn
Quốc 807,4 triệu USD chiếm 5,62%...
Kim
ngạch nhập khẩu tháng 9 năm 2023 ước đạt 1.493,8 triệu USD, tăng 0,52% so tháng
trước và tăng 13,3% so tháng cùng kỳ do xuất khẩu tháng 9 so cùng kỳ tăng so
cùng kỳ nên nhập khẩu cũng tăng theo. Tính chung 9 tháng ước đạt 11.913,46
triệu USD, giảm 19,32% so cùng kỳ. Một số mặt hàng nhập khẩu chủ yếu 9 tháng
tăng so tháng như: Hóa chất tăng 0,34%; Nguyên phụ liệu dệt, may, da giày tăng
0,95%; Sắt thép các loại tăng 0,8% so cùng kỳ; Xơ, sợi dệt các loại tăng1,13%;
Gỗ và sản phẩm từ gỗ tăng 0,56%; Máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện
tăng 1,35%... Thị trường nhập khẩu 9 tháng chủ yếu: Trung Quốc 3.184,6 triệu
USD chiếm 26,73%; Hàn Quốc 1.467,7 triệu USD chiếm 12,32%; Nhật Bản 822,2 triệu
USD chiếm 6,9%; Hoa kỳ 809,1 triệu USD chiếm 6,79%;...
Dự
báo quý 4 xuất khẩu sẽ khá lên, nên nhập khẩu có xu hướng cải thiện hơn, đạt
kết quả cao hơn 9 tháng đầu năm.
7.4.
Giao thông vận tải, bưu chính chuyển phát
a)
Giao thông vận tải
Hoạt
động vận tải 9 tháng năm 2023, đã phục hồi và tăng trưởng khá; bên cạnh đó trên
địa bàn tỉnh hiện nay đang có nhiều dự án xây dựng trọng điểm quốc gia đang tập
trung triển khai thực hiện để hoàn thành kế hoạch năm, nên nhu cầu vận chuyển
vật liệu xây dựng tăng cao. Ngoài ra, trong tháng có dịp nghỉ lễ 02/9 nhu cầu
đi lại người dân tăng cao, làm cho doanh thu dịch vụ vận tải hành khách tăng.
Doanh thu vận tải, dịch
vụ kho bãi, hỗ trợ vận tải tháng 9 ước đạt 2.550,02 tỷ đồng, tăng 2,07% so
tháng trước và tăng 13,63% so cùng tháng năm trước. Quý
III ước đạt 7.506,44 tỷ đồng, tăng 15,02% so với quý cùng kỳ. Tính chung 9
tháng ước đạt 22.603,38 tỷ đồng, tăng 21,53% so cùng kỳ. Trong đó: doanh thu
vận tải hành khách ước đạt 3.074,28 tỷ đồng, tăng 80,78%; doanh thu vận tải hàng hóa ước đạt 12.595,67 tỷ đồng, tăng 17,59%; doanh
thu kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải ước đạt 6.933,43 tỷ đồng, tăng 12,07% so
cùng kỳ.
Vận chuyển hành khách
trong tháng 9 ước đạt hơn 6,02 triệu lượt khách, tăng 2,81% so với cùng kỳ, lũy
kế 9 tháng ước đạt 54,96 triệu lượt khách, tăng 38,03% so cùng kỳ. Luân chuyển
hành khách tháng 9 ước đạt 350,56 triệu HK.km tăng 2,88% so với tháng trước,
lũy kế 9 tháng ước đạt 3.229,6 triệu HK.km tăng 57,82% so với cùng kỳ năm 2022.
Vận tải hàng hóa tháng 9 ước đạt
6,3 triệu tấn, tăng 1,7% so với tháng trước, lũy kế 9 tháng ước đạt 56,26 triệu
tấn, tăng 10,61% so với cùng kỳ. Luân chuyển hàng hóa tháng 9 ước đạt 537,1
triệu tấn.km, tăng 1,7%. Lũy kế 9 tháng ước đạt 4.789,15 triệu tấn.km, tăng
11,79% so với cùng kỳ.
b)
Bưu chính chuyển phát
Doanh thu bưu chính chuyển
phát quý III ước đạt 2.247 tỷ đồng, tăng 2,25% so với
quý trước. Chín tháng doanh thu ước đạt 6.616 tỷ đồng, tăng 13,75% so cùng kỳ.
Số thuê bao điện thoại
phát triển mới 9 tháng năm 2023 ước đạt 722.713 thuê bao, tăng 3,04% so cùng kỳ. Trong đó có 937 thuê bao cố định giảm 15,89%
và 721.776 thuê bao di động, tăng 3,07% so cùng kỳ.
8.
Một số tình hình xã hội
a) Văn hóa thông tin
Hoạt động văn hóa thông
tin trong 9 tháng đầu năm 2023 tập trung trang trí tuyên truyền cổ động trực
quan kỷ niệm các ngày lễ, phục vụ các
nhiệm vụ chính trị của đất nước, của tỉnh bằng các hình thức thực hiện bộ maket
tuyên truyền gửi cơ sở, treo cờ Đảng, cờ Tổ quốc; in treo cờ nội dung, cờ
phướn, băng rôn kích thước (10m x 1m), thay đổi nội dung pano hộp đèn; thay đổi
nội dung pano cố định, thay đổi nội dung pano cụm (2m x 3m), tờ tranh cổ động
và đĩa CD. Về văn hóa quần chúng, tổ chức biểu diễn 14 chương trình văn nghệ
chủ đề và chương trình đờn ca tài tử, tổ chức 05 hội thi, hội diễn, liên hoan
cấp tỉnh. Xây dựng kế hoạch và phát hành
thông báo tổ chức Hội thi các Câu lạc bộ Nghệ thuật quần chúng năm 2023. Tham gia 04 cuộc liên hoan, hội thi khu vực
và toàn quốc đạt nhiều thành tích cao. Xây dựng kế hoạch tham gia
Liên hoan Nghệ thuật ĐCTT Nam Bộ lần thứ XVII mở rộng tại tỉnh Bạc Liêu. Các
câu lạc bộ sinh hoạt theo lịch.
b) Thể dục, thể thao
Trong 9 tháng đầu năm 2023 công tác tham gia các
giải và tổ chức các hoạt động thể dục thể thao trên địa bàn như sau:
- Công tác tổ chức giải: Tổ chức 02 giải quốc gia, gồm: Đăng cai
tổ chức thành công các trận trên sân nhà Giải bóng đá hạng Nhì quốc gia năm
2023, tại Sân vận động tỉnh (06 lượt trận); Đăng cai tổ chức thành công Giải vô địch trẻ Judo quốc gia, từ
ngày 15/7 - 24/7, tại Nhà thi đấu tỉnh. Đồng thời phối hợp tổ chức 01 giải quốc
tế.
- Công tác tham gia giải: Tham gia 18 giải quốc tế và 02 kỳ Đại hội Thể thao Đông Nam Á (SEA
Games 32 và PARA Games 12) đạt
tổng cộng 34 huy chương các loại (12 HCV, 16 HCB, 06 HCĐ). Tham gia 62 giải
quốc gia, 09 giải Cụm, khu vực, mở rộng, đạt được 320 huy chương các loại (85
HCV, 102 HCB, 133 HCĐ).
Ngoài ra Đài Phát thanh - Truyền hình Đồng
Nai phối hợp với Công đoàn viên chức tỉnh tổ chức Giải Việt dã truyền thống tại
Trung tâm thể dục thể thao tỉnh Đồng Nai vào ngày 28/5/2023.
c) Y tế
Tình hình dịch bệnh: Trong 9 tháng đầu năm 2023, tình hình dịch COVID-19
đã được kiểm soát tốt trên địa bàn tỉnh nhưng nguy cơ bùng phát trở lại vẫn
còn, nhất là sau các dịp lễ lớn của đất nước như 30/4, 01/5, 02/9; UBND tỉnh đã
chỉ đạo các đơn vị trong ngành tăng cường thực hiện các giải pháp, kịp thời
phát hiện những diễn biến bất thường của dịch bệnh để áp dụng các biện pháp xử
lý hiệu quả, quyết tâm khống chế không để dịch lây lan và bùng phát.
Từ
đầu năm đến nay, số ca mắc tay chân miệng là 6.062 ca, tăng 6,63% so với cùng
kỳ, không ghi nhận ca tử vong. Sốt xuất huyết ghi nhận 3.119 ca (trong đó số ca trẻ ≤ 15T là 1.619 ca, chiếm tỷ
lệ 51,91%), giảm 82,46% so với cùng kỳ, tổng số ca tử vong là 05 ca, giảm 11 ca
so với cùng kỳ. Sởi ghi nhận 01 ca, giảm 02 ca so với cùng kỳ, không ghi nhận ca tử
vong. Một số
dịch bệnh khác như: Tả, thương hàn, uốn
ván… không ghi nhận trường hợp mắc.
Công tác
đảm bảo an toàn thực phẩm: Tính
đến 31/8/2023 đã thực hiện 12.252 lượt kiểm tra cơ sở sản xuất, chế biến thực
phẩm, dịch vụ ăn uống và kinh doanh tiêu dùng thực phẩm trên 15.419 tổng số cơ
sở, trong đó: 11.897 cơ sở đạt (chiếm 97,1 %), số cơ sở vi phạm là 355
(nhắc nhở 291 cơ sở, phạt tiền 64 cơ sở với số tiền phạt là 650 triệu đồng);
cộng dồn từ đầu năm đến nay ghi nhận 01 vụ ngộ độc rượu do methanol với 01 ca
mắc và tử vong.
d) Giáo dục - Đào tạo
Để
chuẩn bị tốt các điều kiện về cơ sở vật chất cho năm học mới 2023-2024, ngành
GDĐT đã chủ động phối hợp, tham mưu đầu tư xây dựng, cải tạo sửa chữa cơ sở vật
chất trường học trên địa bàn tỉnh. 100% các cơ sở giáo dục đã hoàn thành việc
tổng hợp, đăng ký nhu cầu Sách giáo khoa các khối lớp với các nhà xuất bản đảm
bảo cung cấp kịp thời cho học sinh. Sở GDĐT đã tổ chức bồi dưỡng chuyên môn cho
đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên các bậc học mầm non, phổ thông, thường xuyên
chuẩn bị cho năm học mới 2023-2024. Tổ chức bồi dưỡng chính trị hè năm 2023 cho
đội ngũ cán bộ quản lý các trường THPT.
Các cơ sở giáo dục đã tổ
chức Lễ khai giảng năm học mới đồng loạt vào sáng ngày 05/9/2023 theo đúng chỉ
đạo của Sở GDĐT. Chương trình Lễ khai giảng đảm bảo ngắn gọn, ý nghĩa, trang
trọng. Sau Lễ khai giảng, các cơ sở giáo dục ổn định và duy trì nề nếp học tập;
tổ chức hoạt động dạy học bình thường theo khung thời gian năm học quy định tại
Quyết định số 1923/QĐ-UBND ngày
11/8/2023 về ban
hành khung kế hoạch thời gian năm học 2023-2024 đối với giáo dục mầm non, giáo
dục phổ thông và giáo dục thường xuyên trên địa bàn tỉnh Đồng Nai.
e)
Giải quyết việc làm và đào tạo nghề
Tình
hình hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh gặp
khó khăn, thiếu đơn hàng, các doanh nghiệp buộc phải cho người lao động nghỉ
luân phiên, giãn việc, thậm chí cho thôi việc, một số doanh nghiệp phải tạm
ngưng hoạt động hoặc giải thể. Dẫn tới tình trạng người lao động mất việc làm,
giảm thu nhập. Đặc biệt trong quý I/2023 số lao động nghỉ giãn việc là 35.053
người; mất việc, thôi việc có 32.590 người. Quý III/2023 tình trạng thiếu việc
làm giảm hơn so với các tháng đầu năm, trong quý có 8.279 người nghỉ giãn việc
và 1.062 người mất việc, thôi việc. Lũy kế 9 tháng đầu năm, có 51.154 người
nghỉ giãn việc và 39.346 người bị mất việc, thôi việc.
Tính
đến thời điểm 14/9/2023, Trung tâm Dịch vụ việc làm tỉnh Đồng Nai đã tiếp nhận
hồ sơ đề nghị hưởng trợ cấp thất nghiệp của 51.449 lao động (giảm 2,28% so với
cùng kỳ), trong đó ra quyết định hưởng trợ cấp thất nghiệp cho 47.284 người
(giảm 9,65% so với cùng kỳ), tư vấn giới thiệu việc làm cho 52.032 lao động
thất nghiệp (giảm 3,69% so với cùng kỳ), số người có quyết định hỗ trợ học nghề
là 776 người (giảm 11,61% so với cùng kỳ). Tổng số tiền hưởng trợ cấp thất
nghiệp và hỗ trợ học nghề theo quyết định là 1.642.341,84 triệu đồng (tăng
5,61% so với cùng kỳ).
Trong
9 tháng đầu năm đã giải quyết việc làm cho 63.069 lượt lao động, đạt 78,84% so
với kế hoạch, giảm 5,21% so với cùng kỳ năm 2022.
Toàn
tỉnh có 57 cơ sở giáo dục nghề nghiệp, trong đó: Có 9 trường Cao đẳng; 05
trường Trung cấp; 21 trung tâm Giáo dục nghề nghiệp; 22 cơ sở giáo dục nghề
nghiệp khác và doanh nghiệp tại địa phương. Trong tháng 9/2023, các cơ sở giáo
dục nghề nghiệp trên địa bàn tỉnh tuyển mới đào tạo cho 8.760 học viên; lũy kế
9 tháng tuyển mới 63.175 học viên, đạt 87,74% kế hoạch năm, tăng 1,95% so với
cùng kỳ. Số học viên tại các trường và cơ sở giáo dục nghề nghiệp đã tốt nghiệp
và có chứng chỉ 6.147 học viên; lũy kế 9 tháng tốt nghiệp 52.987 học viên, đạt
80% so với kế hoạch năm, tăng 1.95% so với cùng kỳ.
Cục Thống kê Đồng Nai